Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) Đa số mọi người hồi phục hoàn toàn sau COVID-19, nhưng khoảng 10-20% bị ảnh hưởng lâu dài, ở mức độ nghiêm trọng từ nhẹ đến nặng, được gọi là tình trạng sau COVID-19.Kể từ tháng 7 năm 2021, hội chứng "sau COVID" có thể được coi là một khuyết tật theo Đạo luật Người khuyết tật Hoa Kỳ.Hội chứng COVID-19 dai dẳng (hoặc sau COVID-19) xảy ra khi một người có các triệu chứng COVID-19 dai dẳng trong hơn 12 tuần kể từ khi họ có kết quả xét nghiệm dương tính hoặc có các triệu chứng giống COVID. Tình trạng này có thể xuất hiện nhiều lần, cùng lúc hoặc trong các khoảng thời gian khác nhau. Các triệu chứng của COVID dai dẳng rất khác nhau, ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan, nhưng các triệu chứng về đường hô hấp là phổ biến nhất.Nghiên cứu Đặc điểm Lâm sàng Hậu COVID Quốc tế (năm 2021) cho thấy các triệu chứng phổ biến nhất là: Suy nhược (41%), khó chịu chung (33%), mệt mỏi (58%), đau nhức đầu (44%), rối loạn tập trung (26%) ). %), khó thở (25%), rụng tóc (25%) và giảm chất lượng cuộc sống khoảng 37% (18,4 đến 59,9%)).Không giống như một số loại hội chứng hậu bệnh lý khác có xu hướng chỉ xảy ra ở những người đã bị bệnh nặng, hậu COVID-19 có thể xảy ra với bất kỳ ai đã từng mắc bệnh COVID-19, thậm chí là bị bệnh. Các trường hợp nhẹ, hoặc ngay cả khi không có triệu chứng, vẫn có thể bị "hậu COVID-19" với rối loạn chức năng đa cơ quan:+ Nhóm triệu chứng toàn thân: Mệt mỏi, các triệu chứng sẽ nặng hơn sau các hoạt động thể lực hoặc tinh thần; Đau cơ hay đau khớp; Thay đổi giọng nói và Sốt.
+ Nhóm triệu chứng cơ quan hô hấp, tim mạch: Khó thở hoặc cảm giác hụt hơi; Ho kéo dài; Đau ngực.
+ Nhóm triệu chứng tâm thần kinh và nội tiết: Đau đầu, chóng mặt; suy giảm trí nhớ, giảm khả năng tập trung tư tưởng và rối loại giấc ngủ; Mất vị giác hoặc rối loạn cảm giác vị giác, khứu giác; Trầm cảm hoặc lo âu; chu kỳ kinh nguyệt…
+ Triệu chứng tiêu hóa: đau dạ dày, tiêu chảy, rối loạn chức năng đại tràng.
Xét nghiệm cận lâm sàng có thể gặp: tăng men tim kéo dài, rối loạn đường huyết, rối loạn hormon giáp, giảm độ lọc cầu thận; rối loạn chức năng hô hấp: giảm độ khuếch tán phổi, hạn chế dung tích phổi;
Phát hiện thấy bất thường hình ảnh học: xơ phổi, giãn phế quản trên CT scan ngực, rối loạn chức năng tâm thất qua siêu âm tim.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não sẽ phát hiện tổn thương vi mô vùng hải mã, thùy đảo, thùy khứu giác, chất trắng (phát hiện thấy 55% có tổn thương) ở những ca bệnh có biểu hiện lâm sàng thần kinh.
Hậu COVID – 19 được gây ra bởi 3 cơ chế chính:
• Thứ nhất là sự xâm nhập trực tiếp của virus vào tế bào cơ thể người thông qua thụ thể của men chuyển hóa angiotensin 2 (ACE2), gây ra vô số tổn thương cấu trúc và rối loạn chức năng của tế bào mang thụ thể ACE2 ở hàng loạt các hệ thống cơ quan như: hô hấp, tim mạch, tiêu hóa, nội tiết, thần kinh, cơ xương khớp, da lông.
• Thứ hai là phản ứng viêm và phản ứng miễn dịch quá mức của cơ thể trong quá trình chống lại sự xâm nhập và phát triển của virus, biểu hiện bằng hội chứng nổi tiếng “cơn bão cytokines” gây bệnh cảnh nặng, tổn hại đa cơ quan trong đợt bệnh cấp.
• Thứ ba là những yếu tố tâm lý xã hội tiêu cực từ đại dịch như: Mắc bệnh, nghèo đói, mất việc, cách ly, mất người thân, đặc biệt là những bệnh nhân sống sót sau bệnh cảnh nguy kịch, từng điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực (ICU).
Hiện nay, việc điều trị hậu COVID – 19 là điều trị không đặc hiệu, có nghĩa là điều trị triệu chứng, chăm sóc toàn diện và phục hồi chức năng. Các triệu chứng hậu COVID -19 đa dạng, dai dẳng và kéo dài ảnh hưởng đến quá trình hồi phục và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Trong đó, phổi là cơ quan bị ảnh hưởng trực tiếp, kéo dài với tỷ lệ cao, do vậy phục hồi chức năng hệ hô hấp cần phải được quan tâm và đặt lên hàng đầu.
Phục hồi chức năng sớm đã được chứng minh là rất quan trọng để cải thiện khả năng phục hồi lâu dài và độc lập chức năng của bệnh nhân, do đó việc phục hồi chức năng nên được bắt đầu càng sớm càng tốt.