Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (Kỳ 8): Tướng cướp – nhà văn Sơn Vương và án tù 79 năm
Đầu năm 1969, trên nhật báo Tin Sáng bất ngờ xuất hiện một thiên phóng sự dài với tựa đề “Sơn Vương - người tù thế kỷ”. Ngay sau đó có tờ báo khác cũng “ăn theo” với nhiều bài viết về tướng cướp – nhà văn Sơn Vương, người vừa được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phóng thích sau khi thụ 34 năm tù. Thế giới du đãng Sài Gòn chợt bàng hoàng về một ‘đại ca” mang án tổng cộng 79 năm tù…
Hàng chục vụ cướp táo bạo đã xảy ra ở Sài Gòn và vùng phụ cận, nhắm vào nhà giàu và các chủ đồn điền Tây. Thiên hạ đồn đãi khắp nơi, kẻ khen phục người chê bôi, đi đâu cũng nghe thiên hạ bàn tán. Lúc ấy có tên chủ đồn điền cao su tên Rene Gaillard vừa bị cướp - vốn là một tên giang hồ thứ thiệt, Rene ra tuyên bố: Thưởng năm ngàn đồng và 1/10 số tiền bị cướp cho bất cứ ai tìm ra tung tích thủ phạm. Tên tài xế Năm Đường (người chở Sơn Vương đi cướp nhà băng) đã khai báo để nhận thưởng. Ngày 16.8.1933, Sơn Vương bị bắt, bị xử 5 năm khổ sai và đày ra Côn Đảo.
Ở Côn Đảo lúc bấy giờ đang giam giữ nhiều tù chính trị, đó là những người của Quốc dân Đảng, Hòa Hảo, Cao Đài và Việt Minh. Sơn Vương được đưa vào phòng số 2, là phòng thường phạm. Lúc này, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh cũng đang bị giam ở đây và hai người gặp lại. Tuy là một tù thường phạm nhưng tăm tiếng vụ cướp tiền của chủ đồn điền caosu người Pháp khiến hầu hết tù phạm ở đây kính nể Sơn Vương.
Nhờ giỏi tiếng Pháp mà mỗi lần tù nhân cần gì với giám thị, Sơn Vương lại trở thành thông dịch viên bất đắc dĩ. Cuối năm 1933, nhà tù tổ chức một cuộc thi chữ đẹp để tìm người viết chữ tốt phụ giúp làm giấy tờ cho trại, Sơn Vương được chấm đầu và được nhận làm thư ký cho Ty Ngân khố của Côn Đảo. Từ đó, Sơn Vương không còn bị giam trong tù nữa mà được thả ra ngoài, hàng ngày làm việc cho Ty Ngân khố, tối về đến dạy học cho cô con gái nhỏ của chúa đảo là Nguyễn Thị Kim Hoa.
Đúng một năm sau, cũng vào ngày 16.8.1939, Sơn Vương lại bị bắt trở lại vì bị ghép tội du đãng và bị đưa qua giam tại trại giam ở Pursat thuộc Campuchia. Chỉ vài tháng sau, Sơn Vương cưa cửa tù trốn thoát qua Thái Lan. Rồi ông lại bị bắt khi tìm cách trở về Sài Gòn. Với tội vượt ngục, Sơn Vương bị kết án 10 năm tù và bị giam ở phòng 17 thuộc Bót Catina cho đến đầu năm 1942 thì một lần nữa lại bị đày ra Côn Đảo.
Sơn Vương lúc về già. |
Muốn làm chúa đảo?
Ngày 9.3.1945, quân Nhật chiếm Côn Đảo và bắt giam viên Giám đốc Nhà tù Côn Đảo người Pháp tên Tissaire. Đến cuối năm 1945, Việt Minh giành quyền kiểm soát Côn Đảo. Việt Minh đã cho tổ chức bầu cử và Trương Văn Thoại được bầu làm Chủ tịch ủy ban hành chính Côn Đảo. Ở vị trí này, Sơn Vương tưởng như mình đã trở thành chúa đảo. Sơn Vương cưới cô bé học trò ngày xưa nay đã trở thành cô giáo Lệ Hoa xinh đẹp và dịu dàng. Một đám cưới lớn nhất Côn Đảo được diễn ra. Người ta đồn thổi rằng Sơn Vương còn muốn Côn Đảo chính thức trở thành một quốc gia trung lập, đồng thời tự xưng là quốc vương…!
Giữa năm 1947, Sơn Vương bị đưa về Sài Gòn ra tòa với hai tội danh là cưỡng hôn cô vợ Lệ Hoa và giết một người tù tên Quít, lãnh bản án chung thân. Ngày 8.8.1953, trong một buổi đi làm lao công, bất ngờ Sơn Vương chạm mặt với tên Út, người đã tố cáo Sơn Vương có bản đồ kho tàng. Quá căm tức, Sơn Vương đánh chết tên Út. Thêm một án chung thân nữa và Sơn Vương bị đưa trở lại Côn Đảo. Vào thời đó, bản án chung thân được tính là 32 năm. Như vậy, tổng cộng các bản án tù mà Sơn Vương bị phạt là 79 năm!
Năm 1980, trước khi về lại cố hương Gò Công, ông đã ký tặng chính quyền cách mạng một tập bản thảo đánh máy dày khoảng 600 trang. Tập bản thảo hồi ký này (có tên “Máu hoà nước mắt”, hiện đặt tại Bảo tàng Côn Đảo) chủ yếu nói về những năm tháng khắc nghiệt trong nhà tù Côn Đảo. Ngay trong phần mở đầu bản thảo hồi ký có tên "Máu hòa nước mắt", ông đã viết:“Tại sao tôi đi ăn cướp và tại sao tôi phạm tội giết người?”. Ông viết tiếp: “Ăn cướp để làm gì? Điều này tôi không cần nói rõ chi tiết vì đã có vong linh một số nhà cách mạng đàn anh quá cố và một số gia đình lao động ở Bàn Cờ và Xóm Trể bị cháy nhà từ ba mươi mấy năm về trước (hiện nay còn sống) chứng kiến cho tôi”(...)