Chương 1



(Tác phẩm đạt giải nhì Giải thưởng văn học 10 năm Bộ công an và Hội nhà văn Việt Nam 1995-2005, được chuyển thể thành 11 tập phim truyền hình với tựa đề Lời sám hối muộn màng)


Bây giờ thì hắn được dẫn đến chỗ chôn cây cột ấy. Một cây cột hình thánh giá, to, chắc, đẽo gọt đẹp đẽ, phẳng phiu hơn cây cột của hắn chôn cách đây hơn hai mươi năm. Hơn hai mươi năm trước hắn tổ chức cho lũ bạn bày đặt ra cảnh đưa thằng Hiến lên đoạn đầu đài. Cũng vì tò mò, cũng vì hắn được sinh ra và lớn lên cạnh cái nơi mà người ta thường kết liễu những kẻ tử tù. ở dưới những đoạn hào tối đen rậm rì những cỏ là cỏ kia có lẽ cũng có dăm bảy cái đầu đang thập thò, len lén nhìn về phía hắn. Từ bao nhiêu năm nay người ta vẫn chọn khoảng thời gian nửa đêm về sáng để nổ súng vào những tội nhân, trước khi đưa chúng vào những cỗ quan tài bật nắp chờ sẵn rồi táng xuống lòng đất lổn nhổn cát sỏi lẫn với vô số các loại đầu đạn. Ban ngày trường bắn thuộc về sự quản lý của một đơn vị bộ đội, ban đêm, nơi đây là chỗ để thực thi lẽ công bằng.


Hắn đã háo hức mò đến trường bắn này để xem người ta thi hành án tử hình từ năm mười tuổi. Lần nào hắn cũng phải thức dậy từ một, hai giờ đêm, mò ra đến đầu làng thì gặp hơn chục thằng bạn đã lố nhố đứng đợi ở đấy. Cả bọn kéo nhau đi. Bò như ốc, trườn như rắn, nhảy như ếch, hắn cùng lũ bạn chui tọt xuống những đoạn hào bỏ không, sát sau lưng đội hành quyết căng mắt ra nhìn cái hình người bị xốc tới dựa cột. Hắn xem nhiều đến thế mà vẫn không chán có lẽ vì chưa bao giờ hắn được xem người ta hành quyết tội nhân vào ban ngày. Mọi thứ cứ mập mờ trong đêm, cả tiếng nổ cũng u u mê mê, tiếng người trao đổi với nhau thì thào, loang loãng, tiếng xe nổ vội vàng, tiếng cuốc xẻng lào xào, lạo xạo, những bóng người cử động như trong phim câm, đến khi sáng bạch ra thì chỉ còn nấm mộ lùm lùm với những chân hương cháy dở. Chẳng có gì rõ ràng. Vì thế xem mãi vẫn không chán. Giá người ta cứ cho hắn vào xem đàng hoàng một vụ hành quyết được thực hiện giữa ban ngày ban mặt, thậm chí cho hắn làm cái chân khâm liệm tử thi thì chỉ một lần thôi là hắn sẽ chán. Nhưng chưa có vụ hành quyết nào diễn ra vào ban ngày cả. Lần này với hắn cũng thế. Tối om. Và côn trùng rỉ rả...


Quê hắn có trường bắn áng Sơn nổi tiếng cả tỉnh, nhưng cũng có một con sông thơ mộng chảy bảng lảng qua làng. Người dân áng Sơn ngoài cấy cày là việc muôn đời còn có nghề chèo đò và đập đá. Chèo đò thì cả làng hắn chỉ có một người, đó là ông Thảnh. Còn đập đá thì từ đứa trẻ lên ba đến ông lão tám mươi đều làm thành thạo vì đó là cách tạo thêm thu nhập duy nhất ở cái làng nghèo nhất tỉnh này. Hắn cũng là một tay đập đá có "hạng" của làng. Nhà có ba mẹ con, bố mất sớm nên anh em hắn phải làm việc từ khi lẫm chẫm biết đi. Đá được xẻ ra từng tảng lớn từ núi. Mà núi ở quê hắn lại nhiều. Cũng là sự lạ vì cả tỉnh chỉ có huyện hắn, xã hắn mới có núi. Toàn núi đá. Núi nhỏ, núi to, núi liên kết thành dãy, núi chơ vơ đứng riêng lẻ, núi chụm đầu làm hòn Trống Mái, núi nghiêng người ngả lưng làm Voi, làm Ngựa, núi dựng lên thành khu trường bắn, núi xẻ giữa cho đường cái chạy qua. Và núi đã trở thành mỏ đá cứu đói cho cả làng hắn. Bắt đầu từ cái văn bản đặc biệt của trung ương, trong đó người ta quyết cho tỉnh hắn được làm mới và nâng cấp bốn con đường cả thảy. Luận chứng kinh tế kỹ thuật của tỉnh thì nói đến việc phải phát huy nội lực, phải Nhà nước và nhân dân cùng làm. Muốn nhìn vào nội lực của một tỉnh thì phải xem đến nội lực của huyện của xã. Xã hắn có núi. Mà núi là đá. Làm đường rất cần đến đá. Thế là giữa lúc thói quen làm việc tập thể đang tàn phá dần những đồng làng quê hắn, giữa lúc nền kinh tế công điểm khiến cho gia đình hắn cũng như bao gia đình khác bần cùng, kiệt quệ thì có người nhận đổi đá lấy ngô, đổi đá lấy mì sợi, lạp xường, trứng muối. Lập tức cả làng hắn rùng rùng kéo nhau lên núi vần đá, khuân đá về để ghè, để đập. Nhà nhà sắm đe, sắm búa. Thanh niên trai tráng mang xà beng, choòng, đục, búa tạ lên núi xẻ từng tảng to đưa về. ở nhà đàn bà, con trẻ một đe một búa, cứ thế đập đá cho nhỏ ra, cho đều tăm tắp. Rồi dựng thành khối. Một mét khối mười lăm đồng. Rồi hai mươi, ba mươi, bốn mươi đồng. Một năm, hai năm, dăm năm trôi qua. Ba mẹ con hắn phải mua lại đá tảng của người ta nên mỗi mét khối đá dăm bán đi coi như chỉ còn được hưởng một nửa. ấy là thời kỳ anh em hắn chưa lớn. Sau này khi hắn đã dám theo đám thanh niên trong làng đi lên thị xã thi đấu vật thì hai anh em hắn cũng tự vần được đá tảng ở trên núi về cho mẹ hắn ngồi nhà chỉ việc một đe một búa mà ghè. Giữa tiếng chan chát, đôm đốp đã từng ám ảnh cả tuổi thơ ấy, hắn hỏi mẹ:


- Tại sao con lại tên là Bạch Đàn?



Mẹ hắn bảo:


- Thì tao đi cấy ở ngoài đồng, mày đòi chui ra, tao chạy đến gốc bạch đàn, chẳng nhịn được nữa, ngồi xuống đấy cho mày ra.



Hắn hỏi:


- Thế anh Dương thì mẹ cho ra ở đâu?



Mẹ hắn hắt ánh mắt ngời sáng lên người hắn, đưa tay quẹt mồ hôi rồi bảo:


- Hồi ấy còn bố mày. Đẻ thằng Dương tao sướng chứ không như đẻ mày. Dương là tên bố mày đặt. Đến mày tao chẳng biết đặt là gì nên cứ gọi theo tên cây nơi mày chui ra.


Lại đôm đốp, chan chát. Cả làng đôm đốp, chan chát. Người làng có đi chợ thị xã thì chủ yếu là mua đe với búa. Lửa toé dưới tay mẹ hắn. Có lần bà cô họ hắn ở trên thị xã về chơi. Ngồi nói chuyện với mẹ hắn, bà cô bảo: "Chị dừng tay nói chuyện với em có được không. Em nghe tiếng ghè đá cứ thấy gai gai người thế nào ấy. Nhoi nhói ở hai bên thái dương. Trẻ em mà nghe tiếng đập đá thế này lớn lên có hại lắm đấy chị ạ". Mẹ hắn bảo: "Thế mà trẻ con ở làng cứ lớn nồng nỗng, thằng nào cũng to, cũng khỏe. Quen hết cô ạ. Bốn, năm tuổi chúng nó cũng ngồi ghè được rồi. Không thì lấy gì mà ăn?". Bà cô hắn không nói gì nữa, đưa hai tay xoa xoa thái dương rồi đứng dậy xin phép về sớm. Hắn không hiểu những điều cô hắn nói, vì quả thực hắn không thấy giữa thứ âm thanh chát chúa kia với sự trưởng thành của một đứa trẻ thì có quan hệ gì với nhau? Với anh em hắn sự trưởng thành về cơ bắp và trí tuệ luôn đồng hành cùng thứ âm thanh ấy. Anh trai hắn là học sinh giỏi của trường huyện. Từ nhà hắn lên trường huyện những tám cây số. Anh Dương hắn cứ cuốc bộ đi học đều. Về đến nhà, vứt cái cặp da rách đáy xuống giường là lại vác choòng lên núi đánh đá hoặc xỏ găng tay ngồi ghè đá cùng với mẹ. Hắn cũng chả biết anh Dương học vào những lúc nào mà cứ năm hai lần có thầy giáo đến chở đi thi học sinh giỏi ở trên tỉnh. Có lần thầy giáo phải ngồi chờ vì anh Dương mải vần tảng đá to nửa khối ở trên núi Ngựa, cứ nấn ná không chịu về. Đó là lần anh Dương thi học sinh giỏi toán lớp 9. Hôm ấy anh Dương hắn thay quần áo xong, tu ực một hơi nước mưa rồi bơm mực vào bút, quay ra bảo thầy: "Đi!". Mẹ hắn bảo: "Cơm chỉ có canh thôi, lùa tạm một bát rồi hẵng đi". Anh Dương bảo:


- Để con thi xong rồi về ăn cũng được.


Thầy giáo anh Dương thấy thế, cám cảnh:


- Bác để em đưa cháu ra tỉnh bồi dưỡng cho cháu bát phở rồi vào thi. Bây giờ mà ăn ở nhà xong mới đi thì muộn mất.



Vậy mà anh hắn vẫn được giải nhất học sinh giỏi toán của tỉnh năm ấy. Bản thân hắn cũng học ít làm nhiều. Hắn chẳng bao giờ phải hỏi bài anh Dương cả mặc dù trong thâm tâm hắn rất kính nể. Năm hắn học lớp bảy, cô giáo chủ nhiệm có lần ghé qua nhà hắn chơi. Mẹ hắn hỏi:



- Tháng vừa rồi cô được mấy khối?


Cô giáo hắn bảo:


- Nhà có một mẹ một con, em định sống tằn tiện cũng được, chả dám nhận đá. Nhưng học sinh nó bảo mỗi tuần chúng em đến nhà cô học thêm hai buổi, học nửa tiếng thôi còn chúng em ghè đá cho cô. Thế mà tháng rồi em cũng được gần hai khối đấy chị ạ.


Mẹ hắn bảo:



- ừ, để chúng nó giúp một tay chứ không thì hai mẹ con lấy gì mà sống. Hôm nào tôi bảo thằng Đàn khuân cho cô ít đá hộc.


Cô giáo hắn quay ra nói nhỏ như tâm sự với mẹ hắn:



- Em dạy cả hai thằng con chị, em biết, thằng Dương giỏi thì giỏi thật nhưng nhanh hẩu đoảng, thằng Đàn học chắc hơn chị ạ. Mà thằng Dương chỉ giỏi toán thôi, thằng Đàn bước sang năm nay lại nổi bật về môn văn. Cô Hường dạy văn khen nó lắm. Chị đẻ được hai thằng con trai như thế cũng mát ruột. Con Dung nhà em ấy à, èo uột lắm. Mà cái chứng ở đâu cứ ngồi vào bàn học là lại kêu đau đầu. Em mới bảo: Cho mày đi ghè đá thì hết đau đầu! Nó bảo: Con mà ngồi đập đá thì chỉ ba ngày là lên cơn thần kinh. Khổ thế chứ! Xách dép cho hai thằng con nhà chị không xong.


Đúng là càng lớn hắn càng học giỏi văn. Đọc gì nhớ lấy. Cô Hường đưa cho mượn tập thơ Tố Hữu hôm trước, hôm sau hắn đọc cứ vanh vách. Hắn mê thơ Tố Hữu, đi đánh đá cũng đọc, ngồi đập đá cũng ngâm, ngủ mê cũng toàn nói thơ. Buổi tối hắn thường ra đò ông Thảnh nằm đọc sách nhờ. Nghề làm đá cứ tối xuống là chấm dứt. Đèn dầu tù mù, tham quá cứ ngồi mà ghè có khi nện vào ngón tay cũng nên. Với lại cả ngày đôm đốp, chan chát rồi. Khi ông mặt trời lặn cũng là lúc xương cốt nhão ra, gân bắp tê cứng, phải ngả lưng cho cái cơ thể nó được nghỉ ngơi. Thường thì khi ấy anh Dương ngồi học, còn hắn chạy đi chơi. Vào cuối cấp ba anh Dương bắt đầu học hành một cách nghiêm chỉnh. Anh Dương bảo: "Phải học thôi, thi đại học không xem thường được". Nhà có mỗi ngọn đèn, anh Dương ngồi học rồi thì hắn chạy đi chơi. Hắn thường mang sách của cô Hường cho mượn xuống đò ông Thảnh đọc nhờ. Đò ông Thảnh lúc nào cũng có một ngọn đèn để trong khoang lái. Đò dọc nên tối đến thường ít khách. Ông Thảnh ra đò sau nên không dám chở đò ngang. Dân xã bên người ta đã làm nghề ấy từ mấy đời nay rồi. Thực ra ông Thảnh ra đò cũng còn vì nhiều lý do khác nữa. Hồi ấy hắn còn bé nên chưa hiểu hết được những uẩn khúc của đời ông. Ông Thảnh ở có một mình thôi. Nhà ông có vườn chuối rất rộng. Sau này hắn mới biết vườn chuối ấy đã từng nuôi sống ông trong những năm khốn khó nhất. Ông có nguồn tiêu thụ lá chuối rất bí ẩn ở trên tỉnh. Cái thời mọi thứ đều mậu dịch hoá, những xếp lá chuối của ông biết đi đúng hướng, biết trôi đúng cửa nên nó cũng giúp ông có được cái ăn qua ngày. Vợ và con ông hình như vào Nam từ cái thời đất nước cắt chia. Sống trên cạn ông bị o ép nhiều nên ông xuống sông trải mình với sóng nước. Sau ngày đất nước thống nhất con cháu ông có ra Bắc tìm lại ông. Nhưng đấy là chuyện sau này. Còn ông Thảnh của thời hắn tìm đến đọc thơ nhờ bằng ánh sáng hắt xuống từ bóng đèn làm bằng thân chai sáu nhăm cô đơn và khó hiểu lắm. Ông Thảnh quí hắn, thương hắn, có thể còn hơn thế nữa, tìm thấy sự an ủi cho cuộc đời ông từ hắn. Ông có một cây nguyệt cầm đã cũ, hộp đàn sứt sẹo, đôi chỗ bong cả lớp gỗ dán, mười phím thô bẩn, dính keo nham nhở, xộc xệch nhưng ông nâng niu và giữ gìn nó rất cẩn thận. Lần đầu nhìn cây đàn hắn tưởng đó là thứ đồ bỏ. Đàn gì mà chỉ có hai dây bằng cước trắng đục, chẳng được thanh nhã, mĩ miều như cây ghi ta mà hắn đã từng gảy. Sau hắn cũng hiểu ra công dụng của cây đàn ấy. Ông Thảnh thường gảy nó và hát bằng một thứ giọng liêu trai, phảng phất sương khói, u mê thâm cốc, bàng bạc lau lách, trầm hùng, u uẩn như dãy núi đá bao quanh trường bắn. Lúc đầu hắn tưởng đó là hát chèo. Nhưng ông Thảnh lắc đầu bảo: "Không, hát văn, chầu văn!"


...Cũng mờ ảo khói sương, cũng mịt mờ sóng nước, tự ru mình trong khoảng trống thinh không, quay tám hướng vẫn lui về một góc, giữa lùm xanh thấp thoáng bóng tiên đồng. Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn người. Chỉ còn lại một ngư ông bên núi, gác mái chèo ngửa mặt đón hư vô, con thuyền trĩu những nỗi niềm nhân thế, biết về đâu giữa bát quái trận đồ...


Hắn bảo:



- Cháu nghe ông hát thấy tủi thân lắm, nghe nữa là cháu khóc đấy. Cháu thích những câu như thế này cơ: Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão, gân đang săn và thớ thịt căng ra, đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa, hai mươi tuổi mới qua vòng thơ bé...


Ông Thảnh nghe hắn nói thế, im lặng một lúc rồi xoay người treo cây đàn lên vách đò. Ông bảo:


- Ta lỡ nhuộm hồn cháu bằng một thứ sóng u buồn từ dòng sông cuộc đời ta mất rồi. Nếu có thể cháu hãy xa lánh mọi dòng sông đi. Một chàng trai thích nghe những lời thì thầm của dòng sông cũng giống như một cô gái thích nghe tiếng réo rắt của đàn bầu. Con gái yếu mềm thì được còn con trai thì không, cháu nên bỏ văn đi, học thật giỏi toán như anh cháu để cuộc đời sau này đỡ nhuốm phần đa đoan.



Hắn chẳng hiểu được những lời ấy của ông Thảnh. Hắn vẫn lớn lên bằng sức vóc của người bạt núi, vẫn nghịch ngợm như bao đứa trẻ làng áng Sơn, vẫn khoái cảm khi đêm đến mò vào trường bắn xem người ta kết liễu những kẻ tử tù. Anh Dương hắn đỗ đại học ngay từ lần thi đầu tiên, trường kinh tế kế hoạch. Hắn lại thay thế vị trí của anh hắn ở trường cấp ba huyện. Hắn được đánh giá là học giỏi hơn anh hắn, vậy mà khi lựa chọn môn thi học sinh giỏi hắn lại chọn văn. Và bài văn hắn được chấm loại ưu chính là bài phân tích quá trình tha hoá của Chí Phèo. Mẹ hắn thản nhiên khi nghe hắn thông báo kết quả thi học sinh giỏi. Bà bảo: "Chẳng bằng bố chúng mày ngày xưa. Học giỏi nhưng làm ruộng rất dở. Tính công điểm toàn xếp hạng bét. Tao khổ. Ông ấy cũng chết vì khổ". Hắn chẳng lấy thế làm điều hẫng hụt. ở nhà hắn học giỏi là chuyện bình thường. Học không giỏi mới là điều phải ngạc nhiên. Anh em hắn chẳng bao giờ nhận được sự chia sẻ những thành tựu học tập từ mẹ. Đồng ruộng và tiếng vỡ của đá đã làm mẹ hắn không thấy có gì giá trị hơn hạt gạo. Mà hạt gạo thì hình như không đến từ những bài thi học sinh giỏi. Mẹ hắn thờ ơ với kết quả học tập của anh em hắn cũng như đã có thời người ta thờ ơ với những tấm giấy khen. Hắn chạy sang nhà thằng Hiến để khoe thành tích của mình. Dù không hy vọng nhận được một lời động viên từ sự vô tâm của mẹ nhưng hắn không thể không khoe khoang niềm vui của mình với đám bạn bè ở làng. Và người mà hắn muốn khoe đầu tiên chính là thằng Hiến.


Nhà thằng Hiến lốc nhốc một đàn bảy anh chị em. Bố Hiến ho lao nặng, suốt ngày ru rú ở nhà, trái gió trở trời là ho khồng khộc, ho đến tím tái cả người. Trên thằng Hiến là bốn chị gái, dưới nó còn hai em trai. Hắn thân với thằng Hiến từ năm học lớp ba. Bắt đầu từ cái chuyện thằng Hiến bị bọn học sinh xóm Chùa chặn đường...búng chim! Hôm ấy hắn xách chiếc túi lưới đựng lỏng chỏng vài quyển vở quăn mép đến chỗ bụi duối trước ngã rẽ vào xóm Chùa thì gặp thằng Hiến. Hắn thấy vẻ mặt thằng Hiến căng thẳng lắm, đôi mắt âu lo, nhìn ngang nhìn dọc vừa như cầu cứu, vừa như van xin, lại vừa lo sợ, giấu diếm. "Mày chờ ai thế hả Hiến?". "Không, không, mày cứ đi trước đi". "Sắp trống rồi mày không đi còn đứng đấy làm gì?". "Tao đau bụng, ngồi nghỉ một tí". Hắn đi vài bước nhưng nghĩ thế nào quay lại thấy thằng Hiến đứng nép mình bên bụi duối len lén nhìn về phía gốc gạo nơi ngã ba chợ Chùa. Thấy hắn quay đầu lại, thằng Hiến vội ngồi thụp xuống vờ ôm bụng. Chắc chắn thằng này có chuyện gì rồi. Hắn nghĩ thế và quay trở lại. Thằng Hiến nhìn hắn bằng con mắt khiếp nhược, giọng nói lạc đi như sắp khóc:


- Mày có thấy bọn xóm Chùa đứng ở gốc gạo không?


- Chúng nó bắt nạt mày à?


- ừ...


- Chúng nó làm gì mày?


- Bắt chui qua háng rồi... rồi...


- Làm sao?


- Bắt tụt quần...


- Sao mày để chúng nó làm thế?


- Chúng nó đông, lại cậy gần nhà. Hôm qua bốn, năm thằng chúng nó thay nhau búng chim tao. Đêm qua đau quá, tao không đái được.


- Mở ra tao xem?


- Sưng to lắm, hôm nay chúng nó mà búng nữa thì tao chết mất.



"Lên b. bống rồi", hắn thốt lên kinh ngạc khi nhìn thấy cái con chim của thằng Hiến sưng vù như cái kẹo dồi chó, mọng nước, hồng hồng, bây bấy. Ngay sau đó cảm giác thương hại thúc giục hắn phải làm việc gì đó để lấy lại sinh khí cho bộ mặt xám ngoét vì khiếp sợ kia của thằng Hiến. "Hãy đi theo tao, nhặt mấy cục gạch để sẵn trong cặp, nếu chúng nó đông một mình tao không đánh lại thì mày lấy gạch ra ném". "Nhưng chúng nó gần nhà, hôm sau đi học qua chúng nó lại bắt nạt thì sao?". "Thế cứ để chúng nó bắt nạt mãi à? Theo tao, không sợ!".


(Còn tiếp)


Truyện ngắn: Hồ sơ một tử tù


Tác giả: Nguyễn Đình Tú