Thịnh hành
Cộng đồng
Thông báo
Đánh dấu đã đọc
Loading...
Đăng nhập
Đăng nhập
Tạo tài khoản
Đăng nhập qua Facebook
Đăng nhập qua Google
Bài viết
Cộng đồng
Bình luận
Hồ sơ một tử tù
Chương Kết
Cây cột ấy đã ở trước mặt hắn rồi. Đã nhiều lần cái lạnh chạy dọc xống lưng hắn. Mỗi bước đi của hắn là mỗi đoạn đời, ào đến, vụt qua. Bước đi cuối cùng hắn ngoảnh lại nhìn và giật mình khi nhận ra hai gương mặt vừa xa lạ vừa thân quen, vô tình mà duyên nợ với cuộc đời hắn. Tại sao hai gương mặt này lại ám ảnh hắn cho đến lúc chết nhỉ. Hắn nhắm mắt lại, cố lý giải bằng cách tập trung tái hiện trong đầu những hình ảnh cuối cùng về họ.
Gương mặt thứ nhất: Vị điều tra viên có nốt ruồi ở đuôi mắt trái.
Hắn được gặp người này lần cuối cùng khi anh ta đến trại tạm giam tống đạt tận tay hắn bản Kết luận điều tra. Người này bảo hắn hãy đọc cho hết bản kết luận đó rồi đề đạt ý kiến riêng của mình. Hắn cầm lấy tập giấy anh ta đưa cho, đọc chậm rãi, đến dòng cuối cùng thì dừng lại, ngẩng lên bảo:
- Bản kết luận này được bắt đầu bằng một buổi nói chuyện phiếm giữa cán bộ và tôi. Bây giờ, trước khi cầm bút ký nhận nó, tôi muốn nó cũng được kết thúc bằng một buổi nói chuyện phiếm, cán bộ có thể chiếu cố cho tôi điều ấy không?
Vị điều tra viên bật lên một tiếng cười rồi bảo:
- Quả là tôi đã không sai khi nghĩ về anh. Anh là một trong số những phạm nhân sẽ được đưa ra pháp trường. Những phạm nhân loại này bao giờ cũng để lại trong tôi những suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Có thể đó chỉ là những giây phút hoài cảm về cuộc đời và số phận của mỗi cá nhân. Nhưng với riêng anh, thành thực mà nói, chút suy nghĩ vẩn vơ trong tôi nhiều hơn, trở đi trở lại nhiều hơn, và có vẻ như cố rõ nét mà không sao rõ được.
Hắn bảo:
- Tội tôi quá nhiều, cái án dựa cột đối với tôi là không thể tránh khỏi. Kết luận điều tra đã đề nghị truy tố tôi ra toà với rất nhiều tội danh. Đó là chuyện của cán bộ, chỉ xin hỏi cán bộ đã bao nhiêu lần viết bản này rồi, và sau mỗi bản như thế này, cán bộ có thấy là mình đang làm một việc có ích không?
- Tại sao anh lại hỏi tôi câu đó?
- Vị điều tra viên hỏi lại hắn.
- Vì cái ác chẳng bao giờ bị triệt tiêu, nó luôn tồn tại cùng con người
- Hắn bảo.
- Cứ cho là cái ác không bị triệt tiêu nhưng giới hạn nó trong phạm vi và mức độ nhỏ nhất thì cũng là việc nên làm chứ!
- Có bao giờ cán bộ nghĩ rằng mình cũng đã từng sinh ra cái ác không?
- Suy nghĩ của anh mạch lạc và tôi còn thấy ở anh một chút nhạy cảm thái quá nữa kia đấy. -
Vị điều tra viên đáp lời hắn
- Anh muốn tôi làm rõ cái gọi là "Chút suy nghĩ vẩn vơ" chứ gì? Loại bỏ cái ác ra khỏi đời sống xã hội là nhiệm vụ của những người như chúng tôi. Tuy nhiên nói thì có vẻ nghe xuôi tai nhưng cái ác cũng là con người, mà chúng tôi thì cũng là con người. Không thể có chuyện con người loại bỏ con người, dù với danh nghĩa gì đi nữa mà lại không đem lại chút suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Anh đã uống bia vào một buổi chiều mùa hè nóng nực ở một quán ven đường với một nhóm bạn bao giờ chưa?
Đang nói vị điều tra viên bỗng dừng lại bất ngờ đặt ra một câu hỏi có vẻ chẳng ăn nhập gì với mạch suy nghĩ trước đó.
Hắn nhíu mày một lát rồi đáp:
- Thưa cán bộ, rồi ạ!
Vị điều tra viên tiếp:
- Tôi và đám bạn của tôi thường mời nhau ra quán uống bia với những lý do khác nhau, có thể là vớ vẩn, có thể là nghiêm túc. Ví như tuần trước chẳng hạn, thằng bạn học cùng trường cảnh sát với tôi mời tôi ra quán uống bia để mừng cho vợ nó vừa đẻ con trai. Nó bảo nó vừa ở nhà hộ sinh về, thức suốt đêm, nhưng mừng quá, vui quá, muốn được san xẻ với ai đó, và chọn tôi làm người nâng ly cùng nó. Được vài vại thì điện thoại của nó rung chuông. Người ta bảo cho nó biết đối tượng mà nó theo dõi trong một chuyên án X, Y nào đó đang có mặt. Thế là nó "bai, bai" tôi để lao đến địa điểm đã định như trong phương án vạch trước. Và đối tượng của nó đã nhằm vào nó để bóp cò. Nó đã chết, thằng bạn của tôi ấy mà, đã chết khi chưa hưởng trọn niềm vui làm bố. Kẻ bắn nó đã bị bắt. Thử hỏi lúc đứng trước cái thằng giết người ấy, anh là tôi, anh sẽ nghĩ gì? Thằng giết người ấy tất nhiên rất đáng ghét, không, phải nói là đáng kinh tởm và căm thù mới đúng. Thằng ấy có thể xấu xí, lì lợm, ngổ ngáo, cũng có thể là một thằng bảnh chọe, đa cảm, mau nước mắt. Thằng ấy lưu manh, côn đồ, vô học nhưng cũng có thể là một thằng trí thức, chỉn chu, thậm chí học triết như anh, và học rất giỏi. Tuy nhiên, dù thằng ấy có thế nào thì cái máu căm hờn đang trào sôi lên trong tôi cũng buộc phải kìm lại khi đứng trước kẻ giết người cụ thể đó. Tình cảm phải nhường cho lý trí làm việc. Mà tình cảm thì như cái quả lắc đồng hồ ấy. Nó lắc đi lắc lại theo qui luật. Lý trí nhiều khi như ngón tay, thò vào giữ cho quả lắc đứng yên. Cứ như thế một lần, hai lần, nhiều lần cái quả lắc tình cảm trong tôi trở nên tội nghiệp biết nhường nào...
Vị điều tra viên nói đến đây, quay ra bật lửa châm thuốc hút. Anh ta đi đi lại lại, mắt dõi nhìn ra ngoài cửa sổ như cân nhắc xem cái gọi là
"chuyện phiếm"
với hắn như thế đã quá đà chưa?. Hắn bảo:
- Tôi hiểu những điều cán bộ nói. Nếu cứ theo cái lôgíc ấy mà suy diễn thì những người như cán bộ cũng chẳng sung sướng gì, cũng có những nỗi khổ tâm. Liệu cái đầu lạnh lên thì con tim có giảm sức nóng đi không?
- Với anh, tôi, đã từng tham gia chuyên án ngay từ những ngày đầu tiên
- Vị điều tra viên như không nghe những lời hắn nói, tiếp tục những lời như bộc bạch -
Đã có những đồng đội của tôi ngã xuống trước sự chống trả điên cuồng của anh. Khi nâng súng lên bắn anh ở dưới chân núi có ngôi chùa Áng Sơn, tôi đã nghĩ đến chuyện có thể nâng cao tầm ngắm lên chút nữa. Pháp luật sẽ ủng hộ tôi nếu viên đạn đó đi qua bả vai, cứa đứt cuống tim anh. Nhưng lúc ấy cái quả lắc đồng hồ trong tôi lắc liên hồi, lắc loạn nhịp và tôi đã hạ nòng súng xuống. Quay trở lại câu hỏi của anh, rất khó có thể đặt vấn đề cái đầu lạnh với quả tim nóng có tỉ lệ thuận với nhau không? Khi nâng súng nhằm vào anh, tôi cũng nghĩ đến việc một lúc nào đó anh nâng súng nhằm vào tôi. Tôi nhân danh cho cái thiện, còn anh là cái ác. Tôi có quyền bắt anh phải trả giá, cũng là để cho những họng súng trong bàn tay của cái ác không bao giờ còn có cơ hội xoáy về phía tôi. Và tôi hãy bóp cò sao cho đích đáng nhất. Cái đầu lạnh của tôi bảo thế. Nhưng rồi tôi đã không làm thế. Điều ấy lý giải thế nào? Thật khó diễn đạt bằng lời. Tôi đã khép lại nhiều cuộc đời bằng những bản kết luận điều tra như anh đã đọc. Và tôi cũng có một thói quen. Một thói quen không nên có.
- Là gì vậy, cán bộ?
- Là thả một vật kỷ niệm nào đó vào quan tài của những tử tội trước khi được đem đi chôn cất. Điều này vất vả đối với tôi nhưng đổi lại, lương tâm tôi thanh thản, đồng thời cũng là để khoả lấp cho cái giới hạn không thể nào lý giải được về sự hiện sinh của cái ác.
- Thưa cán bộ, với tôi, vật kỷ niệm ấy là gì?
- Anh không nên đặt câu hỏi đó.
- Vậy tôi muốn hỏi cán bộ một câu khác, một câu liên quan đến cá nhân tôi, được không ạ?
- Anh cứ hỏi?
- Cán bộ có thể nói thêm đôi chút về bức ảnh mẹ con cô Nhung được không? Đứa trẻ ấy là... là thế nào ạ?
- Câu chuyện của chúng ta nghe chừng vượt khỏi khuôn khổ của nó rồi đấy. Tôi không thể nói gì hơn về bức ảnh đó vì tôi đã hứa với người trong ảnh là không tiết lộ bất cứ một thông tin nào về mẹ con cô ta cho anh hay. Anh đừng làm khó tôi nữa. Anh hãy cứ tin rằng có hai mẹ con cô ấy đang tồn tại ngoài đời, vui vẻ và hạnh phúc. Có thể trong ký ức của cô ấy không còn có anh, hoặc cũng có thể, cô ấy muốn cuộc sống hiện tại không có bóng dáng của anh phủ xuống phần đời mình. Đã thế, anh cũng nên chấp nhận những gì mà cô ấy muốn.
Cho đến lúc này, khi hắn đang đi vào cõi chết, hắn cũng không biết gì hơn về bức ảnh mà vị điều tra viên kia đưa cho xem. Lần gặp cuối cùng ấy, ấn tượng để lại trong hắn là anh ta NGƯỜI hơn dẫu anh ta phải mang nhiều gương mặt trong đời để làm cái việc là loại bỏ những phần tử như hắn ra khỏi xã hội. Bây giờ gương mặt của anh ta vẫn đang theo dõi hắn cho tới bước chân cuối cùng. Gương mặt ấy rõ nét hơn lên trong hắn cũng là lúc gương mặt khác chen vào, làm bừng thức trong hắn những xúc cảm và dư chấn tâm lý mới trước giờ phút định mệnh của đời mình.
Gương mặt thứ hai đang hiện lên trước mắt hắn lúc này là Tâm "cận", chàng cuồng sĩ xuất hiện giữa bãi vàng Lũng Sơn lộn nhộn, lở loét, hỗn loạn ngày nào. Tâm cận mang một vẻ mặt khổ đau tiền kiếp, chiếc ba lô có quai đeo chéo trước ngực, gió thổi bạt tóc, đôi giày khủng bố dẫm lên cát bụi, cặp kính lấp loá dõi nhìn theo hắn. Đó là hình ảnh Tâm ở phiên toà phúc thẩm. Còn Tâm ở lần gặp hắn trong những ngày chờ Chủ tịch nước xét đơn xin ân xá gầy guộc, nhỏ bé, khuôn mặt nghĩ suy, đôi mày hơi nhíu và ánh mắt quét đi quét lại những tia sắc sảo, thông minh đến nghi ngại. Tâm là một ký giả trẻ đang được ghi nhận. Tâm bảo với hắn rằng:
"Em đang viết về anh trong một phóng sự nhiều kỳ theo sự phân công của báo nhà. Nhưng những gì về anh trên mặt báo mới chỉ là cái vỏ bề ngoài, cái phần hành động mà thôi. Em hiểu về anh sâu hơn, cái phần không hành động ấy, những đớn đau vật vã, những im lặng nghĩ suy, những run rẩy dại khờ, những sợ hãi tuyệt vọng, những tàn nhẫn độc ác, em chẳng thể đưa vào mấy bài báo cỏn con ấy được".
Hắn bảo:
- Tâm bận tâm đến những thằng tử tù như mình làm gì, chỉ mất thời gian, lại thấy cuộc sống nó kém đi phần tươi tắn. Tâm đã lấy vợ chưa?
Tâm lắc đầu.
Hắn bảo:
- Mình vẫn còn nhớ chuyện của Tâm. Cô Loan rất yêu Tâm kia mà? Cả chị Thái nữa. Tâm có tìm được chị ấy không?
- Tâm bảo:
- Loan đã nhiều lần yêu cầu em cưới nhưng em đã từ chối. Em rất yêu Loan nhưng hình như lấy Loan thì em sẽ mất đi tình yêu của mình. Em sợ điều đó. Còn chị Thái vẫn biệt vô âm tín. Sau này khi đã ra trường rồi, đã về công tác ở toà soạn, em có dịp đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người từ bên kia trở về, em có ý hỏi nhưng trong dòng người hồi hương ấy không có ai biết chị Thái. Có lẽ chuyến đi ấy của chị Thái đã vĩnh viễn không cập bến, mà cũng có thể chị ấy chưa hề ra khỏi đất nước này. Em đã nghiệm ra được một điều, chị Thái là khát vọng về cái đẹp thời thơ bé của em. Nhưng hình như người ta luôn hướng về khát vọng quá khứ để không bằng lòng với hiện tại. Em triền miên sống trong những mối mâu thuẫn mà không sao giải quyết được. Phải chăng vì em là nốt nhạc trầm rời rớt lại từ sợi tơ lòng của người đàn bà yếu đuối đoản mệnh nên tâm hồn em là một khối kết tinh những giọt buồn trong suốt?
Hắn thành thực:
- Tâm là một trường hợp đặc biệt mà mình được gặp trong đời. Có vẻ như cái gì ở Tâm cũng phức tạp và không bình thường.
Tâm cười:
- Thế nào mới được coi là bình thường ở đời hả anh? Cái thiện và cái ác, cuộc đấu trường sinh, là bình thường phải không? Cái chết của anh cũng là bình thường phải không? Ôi nhân loại sẽ ra sao nếu không có thơ ca nhỉ? Có lẽ cũng chẳng sao, mọi sự vẫn diễn ra bình thường. Nhưng cái bình thường ấy mới kinh khủng làm sao? Cái bình thường của một nhân loại không có hồn thơ, không có nghệ thuật, không có cái đẹp, có còn gọi là một cuộc đời nữa không? Mà thôi, em chẳng nên đưa anh vào những khái niệm chưa hoàn chỉnh, lại lắm trúc trắc, hoài nghi ấy làm gì. Em chỉ nên đọc thơ cho anh nghe là đủ.
Phải, chỉ cần Tâm đọc thơ cho hắn nghe là đủ. Nắng phai để mộng tàn lây, Tình đi cho gió sương đầy quán không, Chợ tan ngàn nẻo cô phòng, Sầu dâng bàng bạc cánh đồng tịch liêu, Hồn đơn lắng bước chân chiều.... Ôi, những câu thơ như một lời hát ru cho cuộc đời tử tội. Những câu thơ hay những câu kinh số phận được dành riêng cho hắn?
Hành trình của tử tội chẳng dài lắm đâu
Cây cột có hình thánh giá trước mặt
Hãy bước lên và nhìn lại
Nơi cái ác bị kết liễu
Là cái thiện hồi sinh
Những giọt máu rớt xuống chân cột
Đất sẽ lại nảy mầm...
Và bây giờ thì hắn quay lưng lại với chiếc cột. Đã có bao nhiêu người dựa lưng vào chiếc cột này? Đã có bao nhiêu người chụm chân đứng trên mỏm đất này? Có ai trở về với cuộc sống sau khi đã một lần đứng ở nơi đây vào lúc bóng đêm đang nấn ná trước sự xua đuổi của ánh ngày? Không! Không có ai trở về cả. À có. Có chứ! Có một người đã từng lơ lửng dưới cây cột, đã từng chảy máu và vãi đái xuống lớp đất lạo xạo, gớm ghiếc này. Người ấy bây giờ thành Phật rồi. Người ấy không chờ giải thoát bằng súng đạn. Người ấy tìm thấy sự giải thoát dưới mái chùa bên chân núi kia.
Trước mặt hắn đội hành quyết đã đứng thành một hàng ngang. Hắn bỗng thấy mình tỉnh táo đến lạ thường. Hắn thấy rõ người đội trưởng hô khẩu lệnh. Bầu trời có vẻ như thoáng đãng ra. Và đạo hồng quang xuất hiện như một dải sông uốn lượn trên tầng không. Một con đò. Đúng rồi, hắn nhìn thấy một con đò! Trên con đò ấy có một tiên ông đang ngồi gảy đàn nguyệt....Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn người... Ông Thảnh ơi, ông về đón cháu đi đấy à? Dòng sông Măng sáng láng thế kia, con đò thanh lịch, trang nhã, tôn quí thế kia có chỗ cho một kẻ tội đồ như cháu không? Ở phía cuối dòng sông, nơi đạo hào quang mất hút trước chân trời là địa ngục đang chờ cháu phải không hả ông? Hay bản thân con đò là địa ngục rồi, là chỗ trú ngụ vĩnh viễn cho linh hồn tội lỗi của cháu? Ô kìa, những vì sao! Những vì sao bỗng vọt ra từ những chùm pháo hoa từ đâu bắn tới, toả ra miên man, dày đặc, giăng khắp dòng sông ảo ảnh. Những vì sao đủ sắc màu cứ vọt ra, vọt ra liên tục, lấp lánh trên dòng sông Măng, trên con đò đang bồng bềnh trôi, phủ xuống dáng ngồi tiên ông, xuống cây đàn nguyệt, xuống cả thứ âm thanh réo rắt, nỉ non lúc trầm lúc bổng. Những vì sao đang rơi xuống, rơi xuống bất tận và như không đủ sức chứa nổi triệu triệu những vì tinh tú, dòng sông Măng đáng tương, đạo hào quang tội nghiệp bỗng vỡ ra kèm theo một tiếng nổ long trời, phá rách khoảng đêm mê muội giăng mắc trên những mỏm núi đá. Ngàn vạn những sắc xanh, đỏ, hồng, tím ùa vào mắt hắn sau cái rùng mình rung cả cây cột. Cây cột phát ra một lực rung truyền vào đất. Đất truyền lực rung ấy đến một vài thực thể khiến họ bật ngồi dậy giữa giấc ngủ mê của một đêm mùa hè oi bức. Người bật dậy đầu tiên và ôm mặt nức lên những tiếng hờn tủi chính là mẹ hắn. Khi ánh ban mại rọi đến trường bắn Áng Sơn thì mọi cảnh tượng trong đêm đã biến mất, như thế đêm đen vốn bí ẩn và huyền nhiệm, sinh ra tất cả để rồi lại lấy về tất cả. Khu trường bắn lại trở về với khung cảnh hoang sơ, buồn nản của nó. Dẫu sao đêm cũng đã để lại một sự biến dạng nhỏ. Một khoảnh đất dài độ hai mét mới được đào lên và đắp xuống. Đất vẫn còn vụn tơi. Trên đất ấy có hương và hoa...
...
Sau này người dân ở làng Áng Sơn còn bàn tán mãi về cái đêm thi hành án tử hình ấy. Dù sao thì tử tội cũng là người làng, cũng có bạn bè, họ mạc, người quen, có chút dư âm kỷ niệm với người này người kia nên cái sự bàn tán âu cũng là chuyện thường tình.
Ông Đỗ Văn - Chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, cũng người làng Áng Sơn, một thành viên của Hội đồng thi hành án tử hình, sau này về hưu, khi kể lại đêm hành quyết đó, đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, sau lúc nấm mồ được đắp lên ông đã nấn ná ở lại và gặp hai người rất lạ. Một người lặng lẽ rút trong túi áo ngực ra tấm ảnh nhỏ bằng bàn tay, vùi xuống dưới chân hương, nghiêng mình tiễn biệt tử tù như một cái nghĩa với đồng loại. Rồi anh ta lẩm bẩm một câu rất khó hiểu:
" Cầu chúc cho anh được siêu thoát, cô ấy đang đợi anh ở dưới đấy. Đây chỉ là một tấm ảnh được làm bằng kỹ thuật vi tính. Tôi đã thắp nên trong anh tình yêu cuộc sống để rồi anh lại phải vĩnh viễn xa nó. Chắc anh cũng không trách tôi về điều này"
. Còn người thứ hai đeo đôi kính cận. Anh ta đến trước mộ và đọc một bài thơ rất dài. Ông còn nhớ được hai câu: Áo thêu khăn gấm ngày đi, Lều không quán bỏ hồn si chợ tàn.
Những người dân trong làng thì lại kháo nhau rằng đêm hôm đó chuông chùa Áng Sơn đổ dồn 108 tiếng vào quãng 5 giờ sáng. Sư Pháp Thiện trụ trì chùa tụng kinh suốt đêm. Sau 35 ngày sư Pháp Thiện lại làm lễ cầu siêu cho tử tội để rước vong về chùa. Buổi lễ hôm ấy sư trụ trì đọc kinh Adiđà, kinh ấy có đoạn như thế này:
Nguyện sinh Tây Phương tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vãng sinh.
Nhất thành thượng đạt vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triện lợi lộc.
Bây giờ nếu có du khách nào đến chùa Áng Sơn sẽ không khỏi ngạc nhiên khi được biết trong đất chùa có xây một ngôi mộ cho kẻ tử tù. Trên nóc mộ có treo một dải phướn nhỏ. Vào những đêm trăng sáng, cô giáo Dịu ở dưới làng thường lên chùa ngồi chơi với sư Pháp Thiện. Hai người ngồi ngoài sân uống trà và xem hoa nở. Thỉnh thoảng họ lại ngước mắt lên nhìn dải phướn nhỏ tung bay trong gió.../
Hết.
10:05 SA 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Hắn nghe Bằng nói chợt nhớ ra là ngày xưa Bằng nổi tiếng ở khoa về khả năng hùng biện. Hắn chẳng bao giờ quên được bài hùng biện đói nghèo và nghèo đói của Bằng trong buổi Xê-mi-na bàn về xã hội đẳng cấp của Ấn Độ cổ đại. Bây giờ Bằng đang nói say sưa về con người và số phận, tội lỗi và sám hối, nhưng không phải với dáng vẻ của một nghệ sĩ tài hoa đang diễn trên sân khấu, mà bằng tất cả những chiêm nghiệm của đời mình. Hắn bỗng thấy thương Bằng. Đây là điều khá buồn cười bởi trời sinh ra Bằng dường như là để nhắc nhở những người khác nhớ về khiếm khuyết của mình. Bằng xuất hiện ở đâu là buông những lời móc máy, xỏ xiên ở đấy. Bằng đại diện cho những gì đủ đầy, tròn trịa, hoàn chỉnh giữa một đám bạn hầu hết đều chưa bước qua khỏi lằn ranh tự ti đói nghèo. Những lúc như vậy, và sau này dù có xa Bằng thì hắn vẫn cho rằng Bằng là một anh chàng đáng ghét, hay nói đúng hơn, đáng ghen tị bởi cuộc sống luôn ưu ái đối với Bằng. Thế mà lúc này hắn lại thấy Bằng đáng thương dù bản thân hắn đang bị coi là thú tính, hiếu sát, côn đồ, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Rất có thể bước ra khỏi cái phòng giam này Bằng sẽ mang khuôn mặt khác, dáng dấp khác, tác phong khác, lối hùng biện khác, người ta sẽ lại chỉ còn thấy Bằng là một luật sư giàu có, hào hoa, đủ đầy, thành đạt. Đúng rồi, trước những đôi mắt bon chen, ganh đua, trong chốn hỗn độn háo danh, thèm lợi ai cũng thích trương ra những cái hơn người của mình. Chỉ đến khi trước một người không còn dám mơ tưởng gì tới cõi đời này nữa thì người ta mới chịu hạ vây, thu cánh, xếp hết những góc cạnh, nanh vuốt lại để an ủi, xẻ chia và thổ lộ những mất mát, đau buồn của chính mình. Hoá ra cuộc đời muôn mặt không dễ gì lý giải và bi kịch chẳng dành cho riêng ai, để cho riêng ai, giáng lên đầu riêng ai mà có ở bất cứ đâu, trong mỗi con người, nằm bên cạnh hai chữ Hạnh Phúc. Nó là cặp bài trùng, là mặt đối lập, là phần âm nếu hạnh phúc là dương, là mùa đông nếu hạnh phúc là mùa xuân, là bóng đêm nếu hạnh phúc là ánh ngày, là tiếng khóc nếu hạnh phúc là tiếng cười, chẳng ai không có, chẳng ai không đeo mang.
Cho đến ngày ra toà Bằng còn đến thăm hắn ba lần nữa. Đúng như Bằng nói, hôm xử hắn, Bằng không có mặt. Vị thẩm phán giữ chân chủ toạ phiên toà hỏi hắn có ý kiến gì về việc luật sư vắng mặt không? Hắn bảo hắn không có ý kiến gì, đề nghị toà cứ xét xử. Hắn không ngạc nhiên khi nghe toà tuyên tử hình. Chỉ có điều, năm đêm liền sau đó hắn toàn mơ thấy những điều hãi hùng. Đêm đầu tiên hắn mơ thấy một người đàn bà độ bốn mươi tuổi. Chị ta rao bán bánh cuốn trên một chiếc xe đạp tuềnh toàng, cũ kỹ. Hắn gặp chị ta ở một con phố nhỏ. Chị ta cứ lượn đi lượn lại trước mặt hắn, nhìn hắn cười, đon đả mời chào. Hắn đói. Hắn ăn bánh của chị ta rất ngon lành. Lúc đầu hắn ăn bằng đĩa. Sau đó hắn bốc ăn. Rồi chị ta vừa dỡ bánh vừa đút vào miệng hắn. Đến khi hắn no quá, không ăn được nữa, chị ta vẫn dỡ bánh đút vào miệng hắn. Hắn không sao bỏ đi được. Một tay người đàn bà túm lấy tóc hắn, tay kia chị ta cứ tống vào miệng hắn từng búi bánh một. Hắn chợt nhận ra những lớp bánh chị ta nhét vào mồm mình không phải làm bằng bột có rắc hành và quệt mỡ mà toàn là giấy bản. Ôi chao, hắn đã xơi đầy một bụng giấy bản, giấy tắc ở họng, chặt cứng ở mồm, và còn đang tiếp tục được đưa vào. Hắn ngạt thở quá. Kinh tởm vì những thứ mình đã nuốt vào bụng, chẳng tiêu được, cứ như cái họng súng được lùa giẻ, hắn quì xuống van xin người đàn bà bán bánh cuốn tha cho hắn. Nhưng chị ta kẹp đầu hắn vào hai bắp chân rắn như thép của mình, tiếp tục tống cái thứ bánh trăng trắng, nhờ nhờ kia vào mồm, luôn miệng bảo:
"Mày giết chồng bà, để bà bơ vơ, cơ cực thế này, bà cho mày biết thế nào là chết tức chết tưởi".
Thế rồi từ cổ chị ta rơi xuống một sợi dây có đeo hình thánh giá. Chị ta đành buông hắn ra để nhặt lên sợi thánh giá của mình. Lúc này hắn mới nhìn kỹ khuôn mặt người đàn bà và hắn hoảng hồn khi nhận ra đó là vợ Hân. Phải rồi. Sáng nay chị ta ngồi ở dãy ghế dành cho người bị hại.
"Chỉ còn vài tháng nữa là chồng tôi được về với tôi. Anh ấy có thể thức thâu đêm xay bột giúp tôi tráng bánh. Anh ấy có làm hại gì chúng nó đâu mà chúng nó nỡ giết anh ấy. Ối giời ơi, anh Hân là anh Hân ơi!".
Tiếng khóc và tiếng hờn thê thảm của người đàn bà bán bánh cuốn châm điện vào cột sống hắn. Hắn bật ngồi dậy, choàng tỉnh, thấy ngoài kia tiếng giày của người gác tù vẫn cồm cộp đi lại. Đêm đang tàn. Hắn sờ lên trán thấy mồ hôi túa ra ướt đẫm.
Đêm sau hắn không dám ngủ nữa. Hắn sợ hình ảnh người đàn bà bán bánh cuốn lại hiện về nát hắn. Nhưng gần về sáng thì hắn cũng thiếp đi. Hắn gặp một thiếu phụ đeo tang, ngồi khâu ở trước cửa một gian nhà tập thể cấp bốn tồi tàn. Hắn đi ngang qua và dừng lại xin nước uống. Hắn hỏi chị ta khâu gì? Chị ta bảo khâu chiếc áo lót cho chồng. Rồi chị ta bảo hắn mặc thử xem chiếc áo chị ta khâu có đẹp không? Chiếc áo lót ấy may theo kiểu cổ rộng có tay, bị một vài vết thủng, đã được mạng lại rất khéo. Hắn mặc thử lên người, khi luồn vào thấy rộng nhưng khi mặc xong lại thấy chật. Chật quá. Chẳng hiểu sao chiếc áo cứ thít vào người hắn, nhất là vùng ngực, vùng cổ, làm hắn thấy khó thở. Hắn gào lên, nằm vật ra, giãy giụa nhưng càng giãy càng bị chiếc áo thít chặt cứng vào người. Hắn há mồm, lưỡi thè ra, thở khò khè, mắt trợn lên, thất thần. Thiếu phụ đeo tang vẫn cứ ngồi như hoá đá, mắt nhìn về cuối hồi nhà nơi có con đường dẫn lên đỉnh núi mờ xa. Rồi bỗng nhiên có tiếng trẻ con khóc. Thiếu phụ bước vào trong nhà và lát sau thì bế ra một đứa trẻ độ bảy, tám tháng tuổi. Đứa trẻ đó nhìn thấy hắn nằm trước cửa nhà, lưỡi thè ra, toàn thân cứng đờ thì nín khóc. Mẹ đứa trẻ bảo rằng:
"Áo của bố con mẹ khâu xong rồi nhưng bố con còn đi bắt cướp chưa về. Nếu bố con không về thì lớn lên con sẽ mặc chiếc áo ấy của bố nhé?"
. Đứa trẻ bỗng cười khanh khách. Rồi nó cất tiếng hỏi mẹ:
"Cái thằng người nào nằm kia hả mẹ?".
Mẹ nó bảo:
"Đâu? có thằng người nào đâu? Mẹ chẳng nhìn thấy gì cả".
Đứa trẻ vẫn cứ một mực bảo:
"Có. Có thằng người nằm kia kìa, trông lạ lắm, thân nó cứng đơ, lưỡi nó thè ra, mắt nó mở trừng trừng, mẹ dựng nó dậy cho con chơi với nó"
. Mẹ đứa trẻ bảo:
"Con tôi nhớ bố quá, lại mắc bệnh rồi, thôi để mẹ đi thắp hương nhé".
Người thiếu phụ bước vào nhà, tiến tới bàn thờ nơi đặt một tấm ảnh có hình một người đàn ông đội mũ, đeo sao, mặc sắc áo vàng, châm hương. Hắn giật mình khi nhận ra người đàn ông trong tấm ảnh ấy. Người này đã lao vào hang bắt hắn và hắn đã vung khẩu súng K54 lên nhằm thẳng vào anh ta bóp cò. Đúng rồi. Bây giờ thì hắn nhận ra người thiếu phụ đeo tang ngồi khâu áo kia rồi. Chị ta cũng ngồi trên hàng ghế dành cho người bị hại. Trời ơi, hàng ghế ấy còn nhiều người lắm. Hắn lăn lộn gào thét để thoát khỏi tình trạng căng cứng toàn thân. Đến khi người gác tù đập vào vai hắn, hắn mới tỉnh.
"Ôi, nước, nước!"
. Hắn thấy háo kinh khủng. Tu hết ca nước lạnh hắn mới hoàn hồn trở lại. Trời đã sáng từ lâu. Hắn đưa hai tay lên đấm bình bịch vào đầu. Tại sao đầu hắn lại chứa những hình ảnh buồn thảm, kinh khiếp thế? Tại sao những cơn mộng mị cứ kéo về hành hạ hắn thế? Không rét mà hắn thấy người mình run lên.
Đêm thứ ba hắn vừa chợp mắt thì lại gặp một đứa trẻ lên tám. Đứa trẻ ấy đang chơi trò gì đó ở trên một cánh đồng lúa vừa gặt, có gốc đa to. Thằng bé cứ chạy lên chỗ gốc đa rồi lại chạy xuống dưới cánh đồng. Hắn đến và đứa trẻ bảo:
"Chú có thích chơi trò giang hồ tàn khốc không?
". Hắn nghe thấy lạ quá, liền hỏi:
"Trò giang hồ tàn khốc là trò gì?"
. Đứa trẻ bảo:
"Chú để cháu đắp đất ruộng lên người, nặn thành một hình nhân thì sẽ biết"
. Hắn đồng ý để thằng bé lấy đất nặn lên người. Nặn xong nó lôi hắn tới chỗ gốc đa. Ở đấy đã có bốn, năm hình nhân bằng đất được dựng ngay ngắn. Đứa bé chỉ vào đống đồ đã để sẵn ở dưới chân, bảo:
"Đây là máng gỗ, đây là cuốc, đây là dao dựa, đây là dây thừng, cháu phải chuẩn bị tất cả để lên bãi vàng trả thù cho bố cháu".
Hắn hỏi:
"Bố cháu làm sao mà phải trả thù?"
. Đứa bé bảo:
"Bố cháu bị các nhóm giang hồ ở trên ấy sát hại. Đây là thằng Đàn, đây là thằng Hùng quăn, đây là thằng Thành dê, còn đây là thằng Tùng chột. Bố cháu bị bọn này lừa lên trên đấy đào vàng nhưng thân đi thì có thân về thì không, bây giờ chẳng biết gửi nắm xương tàn ở chỗ nào. Cháu sẽ lên đó hỏi tội bọn chúng nó. Cháu sẽ hỏi tội như thế này này...".
Đứa bé đang nói bỗng rút cuốc bổ vào đầu một thằng hình nhân nặn bằng đất ruộng.
"Cháu sẽ hỏi tội như thế này, như thế này..."
, đứa trẻ luôn miệng "hỏi tội" và tay thì dùng dao và cuốc cứ thế phang tới tấp vào các hình nhân. Lạ thay các hình nhân nặn bằng đất đó lại có máu. Máu phun ra ướt đẫm vạt cỏ dưới gốc đa già. Đến hình nhân cuối cùng, thằng bé bỏ dao, bỏ cuốc, nhảy lên trên không, đưa tay vặn đầu thằng người đất từ đằng trước ra đằng sau. Từ thằng người này bỗng vang lên tiếng kêu
"a...a"
đau đớn, quằn quại, dàn trải khắp cánh đồng, thúc vào tai hắn từng đợt từng đợt như sóng triều cuộn táp. Đứa trẻ bảo:
"Bố cháu ra đi không về, mẹ cháu bỏ đi lấy chồng khác, giờ chỉ còn cháu bơ vơ giữa cánh đồng này. Nhà cháu ở dưới gốc đa. Thức ăn của cháu là lúa, ngô, khoai, sắn và chuột! Chú hãy sống ở đây với cháu, bao giờ cháu lớn cháu sẽ dẫn chú lên bãi vàng để tìm xác bố cháu và dạy cho lũ giết người kia một bài học"
. Hắn bỗng thấy trong người lạnh toát. Hắn bảo:
"Thôi, cho chú đi về, chú không thể ở đây với cháu được".
Đứa trẻ bảo:
"Chú về cũng được, nhưng trước khi chú về chú phải trả bố cháu về cho cháu".
Hắn quì xuống van xin đứa bé:
"Cháu tha cho chú, cái chết thì không thể lấy lại được".
Đứa bé lại bảo:
"Thế thì chú phải tìm mẹ về cho cháu"
. Hắn lại khẩn nài:
"Chú biết tìm mẹ cháu ở đâu bây giờ? Thôi, cháu cứ ở dưới gốc đa này, giữa cánh đồng này rồi một ngày kia mẹ cháu sẽ về đón cháu đi. Chú chẳng giúp được gì cho cháu đâu".
Đứa trẻ bỗng hét lên một tiếng rồi vung máng gỗ đập thẳng vào đầu hắn. Chiếc máng gỗ như một tấm bê tông vẫn dùng cho xây dựng các khu nhà lắp ghép từ từ rơi xuống đầu hắn. Hắn khiếp đảm, cố chạy để tránh nhưng không sao chạy được. Toàn thân hắn đã được đắp đất ruộng và bây giờ thứ đất đó chôn cứng hắn nơi gốc đa như những hình nhân bên cạnh. Đúng lúc chiếc máng chạm vào đầu hắn thì hắn tỉnh. Hai bên má hắn nước mắt đầm đìa. Hắn nhớ là hắn đã khóc khi đứa trẻ kêu gào đòi bố. Con suối lở loét nơi bãi vàng Lũng Sơn vùi lấp bao nhiêu xác chết, có xác chết nào là bố của đứa trẻ không? Có xác chết nào do chính tay hắn cầm máng gỗ bổ vào đầu không? Có xác chết nào bị mổ bụng vì nghi nuốt vàng vào ruột không? Có xác chết nào bị mất một cánh tay vì hỗn chiến không? Hắn đập đầu bình bịch xuống nền nhà, cố xua đuổi những hình ảnh chết chóc, chém giết rất thảm khốc, tang thương cứ len lén len lén tìm về trú ẩn trong tiềm thức. Đến nỗi cán bộ trại giam tưởng hắn tự tử phải mở khoá vào phòng giữ chặt hắn lại. Hai đêm sau hắn còn tiếp tục mơ thấy những khuôn mặt ngồi ghế bị hại. Số những người này nếu cứ tiếp tục xuất hiện để hành hạ hắn bằng những cơn mộng mị quái đản thì có cho hắn gấp đôi thời gian kháng án cũng vẫn không hết. Rất may, sau ngày xử phúc thẩm, những cơn mơ như thế không đến với hắn nữa. Có thể thời gian này hắn nhận được nhiều thư từ thăm hỏi của người thân nên tâm trạng đỡ căng thẳng hơn, thần kinh trở nên ổn định và tâm hồn thư thái trở lại. Mẹ hắn là người viết thư cho hắn nhiều nhất dù bà không biết chữ. Bà đã tìm đến ở nhờ nhà một người nào đó cách nơi giam hắn không xa và nhờ người ta viết thư để gửi vào cho hắn. Khác với mọi lần trước đây, bà không hề khóc, cũng không lu loa chửi mắng hắn hay kêu trời, kêu đất, than thân trách phận gì cả. Qua thư hắn hình dung ra bà chỉ lặng lẽ ngồi ngắm nhìn ảnh hắn. Rồi bà kể cho hắn nghe những câu chuyện thủa ấu thơ, khi hắn còn trong vòng tay vỗ về của bà. Lúc đầu hắn không chịu nổi những lá thư như thế, hắn nghĩ mẹ hắn đang cố tạo ra một không khí vui vẻ gượng gạo. Hắn không muốn sự gượng gạo đó. Nhưng rồi hắn nhận ra là mẹ hắn đang làm cái việc của một người mẹ đi nuôi con mắc bệnh hiểm nghèo ở bệnh viện. Biết rằng con sẽ chết, người mẹ chỉ biết ngồi bên giường bệnh kể chuyện cổ tích cho con nghe mà thôi. Bây giờ thì hắn cũng có khác gì đứa trẻ đó. Và mẹ hắn đang ngồi ngoài song cửa sắt ru cho cục máu u buồn của mình trước khi đem đi hoá. Hắn đọc xong rồi gối đầu lên hai bắp đùi mình tưởng tượng ra giọng kể của bà. Dần dần hắn trở nên thèm khát những cánh thư ấy, câu chuyện ấy, cách kể ấy từ người mẹ già đáng thương kia. Những câu chuyện của bà có ý nghĩa như một sự cứu rỗi. Linh hồn hắn rồi đây sẽ có bến bờ neo đậu, những câu chuyện của bà chính là nẻo về sau cái sự siêu thoát tàn khốc nay mai. Lần nào hắn cũng khóc. Khóc ngon lành. Mẹ hắn không khóc được như hắn. Bà chỉ khóc dấm dúi khi sau lưng không còn ánh mắt nào dõi theo nữa. Những lúc ấy bà khóc như cây rung gió giật, khóc đến kiệt sức, lả mình trong sự cô đơn. Trời bắt bà phải thế, thôi thì nín lặng mà đau, nín lặng mà xót, nếu có thể thì nín lặng mà chết, chẳng để người đời biết đến làm gì, chỉ thêm buồn thêm tủi.
Người thứ hai gửi thư cho hắn là Dịu. Chỉ một lá duy nhất. Hắn đã được gặp lại Dịu trong phiên toà sơ thẩm. Dịu hầu như không thay đổi. Vẫn chiếc áo cổ lá sen, trước ngực có xẻ hình quả bầu. Dịu có đôi mắt buồn vô cùng, gợi những cánh cò xa xăm trên đồng lúa xạc xào gió thổi. Dịu cứ nhìn hắn bằng đôi mắt dập dìu hương lửa, bát ngát trăng sao, lung linh sóng nước. Đôi mắt Dịu gợi nhắc trong hắn toàn những điều trong trẻo, tinh khiết, xa ngái. Trong những giây phút gặp nhau ngắn ngủi hắn hỏi:
"Sao Dịu không lấy chồng đi?"
. Dịu chỉ cười nhẹ. Nụ cười phảng phất buồn, hơi chua xót và nhẫn nhục. Hắn tin là Dịu không còn yêu hắn. Nếu hắn có thoát được cái án tử hình thì Dịu cũng chẳng bao giờ còn là của hắn nữa, chỉ có điều Dịu quá tôn thờ tình yêu, quá hết mình cho một lần lỡ dở, quá cạn kiệt lòng mình cho một lần bùng cháy, nên chẳng thể làm lại được nữa. Dịu không trách hắn đâu. Hắn nhìn vào đôi mắt kia của Dịu là hắn biết. Nhưng đôi mắt ấy dội mưa axít vào lòng hắn. Hắn đã phụ tất cả những gì tốt đẹp nhất mà một đời thiếu nữ có thể dâng hiến: Thời gian, nhan sắc, trinh tiết, tình yêu. Bây giờ Dịu trả cho hắn đôi mắt. Hắn không dám nhìn vào đôi mắt ấy. Vị tha thế mà sao đớn đau. Nhân ái thế mà sao cay đắng. Đẹp đẽ thế mà sao u buồn. Trung thực thế mà sao tủi hổ. Nhiệt huyết thế mà sao nguội lạnh. Đừng nhìn hắn bằng đôi mắt như thế nữa. Hắn van Dịu đấy. Dịu hãy lấy chồng đi. Điều ấy sẽ làm cho hắn thanh thản vì dù sao thì hắn cũng chả là gì trong ngăn tủ cuộc đời của Dịu. Kiếp này hắn nợ Dịu quá nhiều. Nhưng Dịu đừng để cái bóng của hắn trong túi riêng của mình làm gì. Tội tình lắm Dịu ơi!
Người thứ ba gửi thư đến cho hắn là anh Dương. Thư anh Dương không khác những điều anh nói với hắn trong buổi gặp ở phiên toà sơ thẩm. Anh bảo:
"Anh không muốn cho chị và các cháu gặp em trong hoàn cảnh này. Những bài báo viết về em anh cũng giấu biệt đi, không cho các cháu biết, sợ ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của chúng nó. Anh gặp em lần này, chỉ muốn nói với em một điều rằng, cũng còn may cho dòng họ Phạm nhà mình là anh đã sinh được một cháu trai nối dõi. Mệnh em ngắn ngủi, đến đây là dừng, thôi thì cứ yên tâm, không phải lo nghĩ gì."
Hắn hỏi:
- Công việc của anh thế nào?
Anh Dương bảo:
- Tốt. Nhìn chung là những việc em làm không ảnh hưởng đến con đường công danh của anh. Anh vừa được đề bạt phó giám đốc. Anh đón mẹ ra ở với anh, để mẹ ở một mình một phòng trên tầng ba. Mẹ già rồi, bây giờ lại sùng đạo, suốt ngày tụng kinh gõ mõ. Nhiều lần mẹ bỏ anh về lại quê cũ, anh lại phải cho xe đón mẹ ra. Anh bảo mẹ bán cái nhà cũ ở quê đi nhưng mẹ bảo phải giữ lại, biết đâu em có đường sống còn có mái nhà mà ở. Sự thể đã thế này thì chắc là mẹ chả giữ nữa. Tháng sau về quê anh sẽ bán. Cả đất, cả nhà, chắc cũng chẳng được bao nhiêu!
Hắn bảo:
- Em chả đáng làm thằng em của anh. Anh chẳng nhớ đến em cũng được, nhưng anh đừng nghĩ về mẹ đơn giản như thế. Về già người ta cần nhiều thứ hơn là ăn ngon, mặc đẹp. Nếu mẹ chưa muốn thì anh cũng đừng ép mẹ phải bỏ hẳn quê quán. Dù sao thì ngôi nhà đó cũng đã từng gắn bó với cuộc đời mẹ. Hơn nữa, ở quê còn có mộ bố.
Anh Dương bảo:
- Ối dào, mộ bố anh xây lại từ mấy năm nay rồi, to, đẹp, chả kém gì ai. Còn mẹ, về già không theo con cái thì theo ai? Không thể cứ chiều các cụ theo cách ấy được. Việc của mẹ bây giờ là nghỉ ngơi và an dưỡng tuổi già. Mấy lần mẹ đi tìm em mà không nói với anh là anh bực lắm đấy. Nhưng thôi, chuyện của em mẹ buồn một thời gian rồi sẽ dịu lại. Anh cũng thương em nhưng mà cứ nghĩ đến em là giận. Bây giờ thì thương hay giận thì cũng thế thôi. Coi như gốc nhà ta có một nhánh bị sâu ăn. Việc em làm, em chịu. Chả trách ai được!
Tự nhiên hắn thấy buồn. Buồn quá thể. Buồn đến đông cứng cả người lại. Anh Dương đã khác xưa rất nhiều, đầu hơi hói, bụng phệ ra, dáng lạch bạch, quần áo bảnh choẹ nhưng suy nghĩ vẫn là anh Dương của cái thời thích ăn cơm với ruốc của người yêu và mơ có được một chiếc mũ nồi đen. Nói chuyện với anh Dương hắn luôn có cảm giác ơn ớn như ăn phải thịt mỡ. Ừ thôi thì cái nhánh ấy sẽ nảy mầm xanh tốt, sẽ lá cành xum xuê cho dòng họ Phạm của hắn tiếp tục bám rễ với đời. Còn hắn, một nhánh cây bị sâu ăn mọt rỗng, sẽ đổ ngang thân, sẽ bị lia cụt, sẽ vĩnh viễn không xanh lá tốt cành, không đâm hương kết trái. Cây cột đang chờ hắn. Một cá nhân bị cộng đồng loại bỏ. Chả đáng để ai phải bận tâm. Ngay cả với anh Dương cũng đang phải đơn giản hoá cái chết của hắn đi cho nhẹ lòng mà sống. Hắn bỗng mong đến cái ngày ấy. Cái ngày được bước chân đến cây cột định mệnh.
(Còn tiếp)
10:00 SA 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 9
Vậy là trong đời, ba lần cả thẩy hắn đứng trước vành móng ngựa.
Lần đầu tiên hắn đứng cùng với bọn thằng Xế, thằng Học sau khi gây ra vụ ẩu đả với hội Yên Mĩ vào cái ngày đầu tiên hắn đặt chân tới bãi vàng.
Hai lần sau là phiên sơ thẩm và phúc thẩm mà bản án dành cho hắn sau khi tổng hợp hình phạt là không thay đổi: Tử hình!
Chứng lý quá đầy đủ, rành mạch, cụ thể đến từng đường tơ kẽ tóc. Trong các bản cung của hồ sơ, người ta thấy hắn thành khẩn đến mức khó tin. Một tên cướp lì lợm, khét tiếng tàn bạo, lại có cái đầu khá nhiều chữ như hắn không lẽ lại dễ dàng suy sụp đến mức khai thông thốc ra như thế sao? Không. Hắn đã từng im lặng. Im lặng đến độ người ta lo sợ hễ sểnh ra là hắn sẽ cắn lưỡi tự tử. Trước mặt các điều tra viên hắn câm nín như hoá đá. Hỏi gì cũng gật, nói gì cũng nhận, sau mệt mỏi quá, hắn bảo:
"Các anh cứ làm bản cung đi, rồi tôi ký rẹt một cái là xong. Tôi muốn các anh kết thúc số kiếp tôi càng sớm càng tốt".
Đó là lời khẩn cầu thật lòng của hắn. Tuy nhiên việc phán xử một con người không thể chỉ căn cứ vào những lời thú nhận có vẻ như cho xong chuyện. Hắn phạm tội thế nào, ngày, giờ, địa điểm, cách thức, diễn biến, hậu quả, động cơ, mục đích, tình trạng tâm sinh lý, đồng phạm hay riêng lẻ, ai biết, ai không, khắc phục hậu quả, tiêu thụ của gian như thế nào, hồ sơ phải thể hiện được tất cả những vấn đề ấy. Vậy mà hắn không chịu nói. Luật lại qui định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Hắn đã trở nên một khối trầm uất u buồn, không muốn nhắc tới bất kỳ một điều gì liên quan đến quá khứ. Thậm chí, cùng với thời gian có thể hắn sẽ trở nên tâm thần bởi tuyệt vọng và hoảng sợ. Mà thời gian dành cho việc chứng minh tội phạm không phải vô hạn định. Cuối cùng người ta đành phải đưa đến chỗ hắn một vị điều tra viên mới.
Người này đã từng rất có ấn tượng đối với hắn.
Hắn nhận ra ngay vị điều tra viên này bởi đây chính là người đàn ông đã từng bám sát hắn suốt quãng đường trốn chạy sau cùng của cuộc đời. Nốt mụn ruồi ở đuôi mắt trái anh ta luôn ám ảnh hắn trong những đêm dài trốn chui trốn lủi, bần cùng và kiệt quệ. Bây giờ anh ta lại đến với hắn. Anh ta đặt chiếc cặp lên bàn, cố tình gạt nó sang một bên, ngả người một cách thoải mái ra thành ghế, rồi bảo:
- Hôm nay tôi với anh làm ấm chè rồi nói chuyện phiếm. Công việc tạm gác sang một bên, chả nên bắt nhau mệt mỏi mãi như thế làm gì. Anh có đồng ý không?
Hắn im lặng.
Vị điều tra viên lại nói:
- Có thể anh không có chuyện gì để nói cả, nhưng tôi lại có nhiều chuyện để nói với anh đấy.
Một cảnh sát trẻ bê bộ ấm chén đã pha trà sẵn bước vào phòng. Vị điều tra viên đỡ lấy, đặt xuống bàn rồi rót ra chén đưa mời hắn. Hắn lắc đầu. Vị điều tra viên nọ liền đặt chén nước xuống trước mặt hắn, quay ra nhấm nháp chén trà của mình rồi bật thuốc hút. Bất ngờ anh ta hỏi:
- Anh có muốn biết cái bãi vàng Lũng Sơn của anh bây giờ nó như thế nào không?
Mi mắt hắn khẽ động đậy. Mùi trà thơm quá, kích thích vòm họng quá, lại cả mùi thuốc lá nữa, thần kinh hắn có vẻ như đang căng ra vì thứ khói này.
- Anh uống nước đi
- Vị điều tra viên tiếp tục-
Và cứ hút thuốc tự nhiên. Còn đây là tập ảnh vừa mới chụp. Anh còn nhận ra chỗ ở của anh ngày xưa nữa không?
Tập ảnh vị điều tra viên lấy ra từ trong cặp khá dầy, được đẩy tới chỗ hắn. Hắn chưa cầm tập ảnh ngay mà lại đưa chén trà lên miệng nhấp từng ngụm, khoan khoái, sau đó rút ra một điếu thuốc và châm lửa. Kéo một hơi dài xong hắn mới ngẩng đầu lên, buông một câu ngắn ngủi:
- Cảm ơn cán bộ!
Tập ảnh được tráo đều trước mắt hắn. Công ty khai thác vàng bạc đá quí Việt - Nhật, khu nhà sàng, phòng nghiên cứu thăm dò địa chất, khuôn viên có thảm cỏ và cây xanh, những dãy nhà vừa mới quét ve, con suối trong vắt, mấy quả đồi lô nhô có cắm cờ... Bãi vàng Lũng Sơn đã hoàn toàn được qui hoạch lại, không còn dấu vết của sự khai thác tự phát nữa. Tất cả đã đổi thay, ngay cả những nơi heo hút nhất. Dãy núi đá mà hắn từng ẩn náu lẫn vào nền trời xanh, yên bình và xa lạ. Những khoảnh khắc mà vị điều tra viên kia mang lại đã cào nhẹ vào vùng cảm xúc khô héo trong hắn. Tự nhiên hắn muốn biết thêm những điều khác, ví như cái đám dân đào vàng trong hội Áng Sơn của hắn bây giờ ra sao, hoặc giả, hắn sẽ phải nhận hình phạt như thế nào sau những ngày tạm giam này? Vị điều tra viên lại móc trong cặp ra hai tấm ảnh nữa. Anh ta đưa cho hắn một tấm rồi bảo:
- Anh có nhận ra những ai trong tấm ảnh này không?
Hắn cố nén tiếng thở dài. Mẹ hắn đây ư? Bà đã già quá rồi, trông dáng bà đứng bên con trai và con dâu vẹo vọ đến tội. Anh Dương thì khác xa so với hình ảnh mà hắn còn lưu giữ được. Anh Dương bây giờ đã là một người đàn ông trung niên thành đạt, nét phú quí hiện rõ trên bộ quần áo, đôi giầy, chiếc đồng hồ đeo tay, cả nụ cười cởi mở, khoáng đạt kia nữa. Người chị dâu mà hắn chưa một lần gặp mặt có vẻ xuề xoà, khuôn mặt chị toát lên nét gì đó hồn hậu, đại lượng. Thằng bé đứng trong lòng mẹ hắn khoảng mười bốn, mười năm tuổi, gầy gò, láu lỉnh, có cái trán dô. Chắc đây là đứa con đầu của anh Dương. Hắn được biết mẹ hắn đã ra Quảng Ninh ở với anh Dương nhưng bà vẫn đi đi về về để
"trông mảnh đất quê cho thằng Đàn"
. Bà cũng đã từng lần mò lên cả bãi vàng Lũng Sơn để tìm hắn nhưng dạo ấy hắn còn đang cùng Lân sáu ngón lang bạt ở mấy tỉnh biên giới Việt- Lào. Bây giờ thì bà đã biết hắn đang nằm trong bốn bức tường này. Hắn vẫn nhận được quà của bà gửi vào, chỉ có điều đang trong giai đoạn điều tra nên người ta không cho bà vào gặp.
- Còn bức ảnh này, tôi cứ đắn đo mãi không biết có nên cho anh xem không?
- Vị điều tra viên khẽ đập đập tấm ảnh còn lại vào lòng bàn tay -
Tôi đã hứa với cô ấy là không tiết lộ gì cho anh. Nhưng tôi nghĩ ít ra anh cũng phải biết là cô ấy còn sống. Chắc anh cũng đồng ý với tôi thế chứ?
- Cán bộ đừng đùa giỡn với tôi nữa
- Hắn bật nhỏm người dậy -
Cán bộ hãy cho tôi biết cô ấy là ai? Có phải là Nhung không?
Vị điều tra viên có vẻ như đã thoả mãi mục đích của mình, anh ta chìa tấm ảnh ra trước mặt hắn:
- Đây, anh xem đi.
Hắn run run cầm lấy tấm ảnh. Đúng là Nhung thật. Nhung đang bế một đứa bé bụ bẫm mặc bộ quần áo len mầu vàng. Nhung đẹp đến mức hắn ngỡ ngàng. Không còn nhận ra chút giang hồ phóng đãng nào trên khuôn mặt thiếu phụ đẹp như trăng rằm này nữa. Mặn mà. Quyến rũ. Mãn nguyện. Ngập tràn hạnh phúc. Đó là tất cả những gì toát ra từ Nhung. Còn đứa trẻ? Nó mới bầu bĩnh, đáng yêu làm sao. Đôi mắt đen lay láy, ngơ ngác, chẳng thể nhận ra được là trai hay gái. Con hắn đây sao? Có thật là con hắn không nhỉ? Bây giờ hai mẹ con Nhung đang ở đâu?
- Bây giờ chúng ta bắt đầu làm việc nhé?
- Vị điều tra viên sau khi lặng lẽ quan sát mọi thái độ của hắn nãy giờ, lên tiếng -
Anh hãy kể lại tất cả những gì anh biết, anh làm trong đêm mười sáu tháng tư ở phòng giam số hai mươi tư, trại giam Thanh Phong?
- Thưa cán bộ...?
- Chúng ta chuyện phiếm với nhau như thế đủ rồi. Mọi thông tin cần thiết khác đối với cá nhân anh chúng tôi sẽ xem xét để đáp ứng cho anh vào một dịp khác. Bây giờ thì anh phải trả lời những việc mình làm. Nào, bắt đầu từ cái đêm mười sáu tháng tư ấy...
Đêm 16 tháng 4 ư? Trí óc hắn bắt đầu hệ thống lại những hình ảnh cắt xé, nát vụn. Đó là đêm cuối cùng hắn nằm cạnh trưởng phòng Hân. Nếu như Hân không bất chợt tỉnh dậy khi nghe tiếng gẫy của chấn song sắt cửa sổ thì hắn đã không ngồi đè lên người anh ta, không xiết chặt mười ngón tay vào cổ anh ta làm gì. Vâng, chính hắn. Mục đích ư? Để Hân khỏi ngăn cản việc trốn trại. Có biết vòng xiết ấy có thể dẫn đến chết người không ư?. Có, có chứ. Nhưng khát vọng tự do mạnh hơn tất cả. Thế là bất biết cái gì sẽ xảy ra dưới hai bàn tay mình. Rồi sao nữa ư? Chui qua song sắt và chạy...
Cứ thế hắn lần lượt khai tất cả. Khai chi tiết. Không bỏ sót một vụ việc nào. Một tháng sau đó hồ sơ được hoàn tất. Trước khi phiên toà sơ thẩm mở độ mười lăm ngày, có một người đàn ông đến gặp hắn. Người này trạc tuổi hắn nhưng gầy gò hơn. Trong khi ngồi chờ cán bộ trại giam vào phòng dẫn giải hắn, anh ta móc trong túi quần ra một mảnh cá mực nướng, xé nhỏ, đưa vào miệng nhai nuốt ngon lành. Không ít cán bộ quản giáo tưởng anh ta nhai kẹo cao su. Còn hắn, hắn vừa nhìn thấy người này thì giật mình, không biết nên xử trí thế nào. Đối với hắn anh ta chẳng còn đáng giận nữa. Nhưng cũng không thể nói sự có mặt của anh ta ở đây là đáng kính trọng. Phải, người đàn ông ấy chính là Bằng. Theo như trên tấm danh thiếp mà anh ta đưa cho cán bộ quản giáo thì anh ta là Trần Bằng - luật sư, người được mời cãi cho hắn trong phiên toà sắp tới. Chờ cho hắn yên vị trên chiếc ghế đối diện và người quản giáo đi ra khỏi phòng, Bằng mới lên tiếng:
- Trước hết, tôi phải nói ngay thế này cho Đàn hiểu, với mức án của Đàn, dù Đàn không thuê luật sư để biện hộ cho mình thì luật pháp cũng qui định toà án phải chỉ định một luật sư đến cãi cho Đàn. Tôi đã quyết định chọn vụ này. Không phải vì tình bạn, tình đồng môn, sự nổi tiếng hay vì cái gì cả. Chỉ vì tôi thấy mình có lỗi phần nào đối với cái kết cục không mấy may mắn của Đàn.
Hắn nhìn thẳng vào Bằng, lắng nghe từng lời Bằng nói. Cảm giác trước tiên hắn nhận thấy là con người Bằng có vẻ thành thật. Hãy cứ thử xem anh ta làm được điều gì cho hắn? Hắn bảo:
- Chúng ta không nên để chuyện cũ đè nặng lên suy nghĩ của mình làm gì. Tôi hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về những gì mà mình đã làm, không oán trách ai cả. Ông đối với tôi như thế này, tôi rất mừng. Nhưng tại sao ông lại làm cái nghề này? Tôi tưởng ông bây giờ phải làm chủ tịch huyện rồi chứ?
- Nhảm nhí, nhảm nhí tất Đàn ạ, cái tuổi trẻ ngông cuồng và mơ mộng viển vông của tôi ấy mà. Thực ra ngày ấy tất cả chúng ta còn quá trẻ để hiểu biết về sự đời. Ngay sau khi Đàn bị tuyên án lần đầu, tôi bắt đầu lục vấn lại chính mình.
- Quả thực ông khác xưa nhiều quá
- Hắn không còn cảm thấy phải dè chừng với Bằng nữa - C
ái tính khinh người của ông bỏ đi rồi à? Với tôi, ông là hiện thân của sự giễu cợt. Sự giễu cợt có thể làm cho con người ta sống khỏe lên nhưng cũng có thể làm cho con người ta không sống nổi nữa. Bây giờ thì ông lại đang có dáng vẻ của một nhà thơ, cảm thông và chia xẻ, đó là ấn tượng mới của tôi về ông.
- Đàn đừng nói thế. Nhận thức là một quá trình kia mà. Dặc dài cái quá trình nhận thức ấy luôn rớt rơi những ngậm ngùi và sám hối. Sau khi tốt nghiệp, tôi được điều về công tác ở văn phòng tỉnh uỷ. Mấy năm sau tỉnh có ý đưa tôi sang công tác bên ngành tư pháp. Tôi học tiếp trường Pháp lý. Đến khi ra trường thì cơ chế mới mở tung, tôi thành lập công ty luật và có chân trong Đoàn luật sư. Không giấu gì Đàn tôi bây giờ khá giàu có, nhưng lại rất nghèo một thứ, ấy là con cái. Bảy năm trước đây tôi phải giải phóng cho vợ tôi đi lấy chồng vì kết luận của bác sĩ chỉ rõ tôi là người vô sinh.
Lúc này hắn mới nhìn kỹ con người Bằng. Bộ com lê may rất đẹp nhưng vẫn không che lấp đi được vẻ thảm hại thoát ra từ thân hình gầy gò. Trên mặt Bằng không còn một vết mụn trứng cá nào, nhưng sùng sụng, mệt mỏi và thoáng nét tuyệt vọng. Bằng đã từng là một con đực ấn tượng trong ký túc xá ngày nào, giờ trở nên tự ti giới tính đến mức tội nghiệp. Bằng ngông nghênh và đáng ghét, thực tế và sòng phẳng, ham muốn và quyết liệt giờ trở nên u uẩn, bi quan, suy sụp và sám hối. Ít ra là Bằng đã tỏ ra cho hắn biết thế.
- Tôi đọc không sót một bài báo nào về Đàn
- Bằng nói tiếp -
Tôi cũng đã nghĩ, rất có thể một ngày nào đó Đàn sẽ gõ cửa nhà tôi và dí súng vào mang tai tôi cũng nên. Báo chí tô vẽ Đàn thành một tên cướp huyền thoại. Còn tôi, tôi chỉ thấy là Đàn đang rơi vào bi kịch mà không thể thoát ra được. Có người còn đang thu thập tư liệu để viết sách về Đàn đấy. Cậu ta cũng đã đến gặp và hỏi chuyện tôi. Cái cậu nhỏ nhắn, thư sinh, đeo cặp kính cận ấy. Cậu ta bảo đã từng ở trong hang đá với Đàn, từng uống rượu và đọc thơ cho Đàn nghe. Tôi chả tin. Và tôi bảo với cậu ấy rằng: "Cái ác nó lạ lắm, chả biết hạt giống được lấy ở đâu, nó có thể rơi xuống bất kỳ một con người nào và nảy mầm trong giây phút. Một người vô học có thể cầm dao chém mẹ, một giáo sư cũng có thể đóng đinh vào đầu vợ, một nhạc sĩ cũng có thể cầm tuốc nơ vít ngoáy vào tim người khác, làm sao cứ phải bận tâm lý giải về trường hợp của Đàn làm gì". Thế là cậu ấy bỏ đi. Nhưng tôi biết cậu ấy chưa từ bỏ ý định viết về Đàn. Hay là bi kịch của mỗi con người đều là chất men gây cảm hứng sáng tác cho những tâm hồn nghệ sĩ?
Hắn bảo:
- Cậu ấy đã từng ở với tôi thật đấy. Và cậu ấy đúng là một nghệ sĩ.
Bằng bỗng hạ giọng:
- Ừ thôi, đấy là chuyện của Đàn. Bây giờ Đàn thành thật trả lời tất cả những điều tôi hỏi. Chỉ có cách ấy may ra mới có thể tìm được một vài tình tiết giảm nhẹ nào đấy cho Đàn. Ví như trường hợp thằng Hân, ở với nó từng ấy ngày Đàn có thấy nó mắc bệnh gì liên quan đến tim mạch không?
Hắn không hiểu:
- Bệnh tim mạch á? Để làm gì?
Bằng bảo:
- Để tôi có thể chứng minh rằng thằng Hân chết không phải vì ngạt do bóp cổ.
Hắn lắc đầu:
- Thôi, ông đừng làm thế, chả giúp được gì cho tôi đâu. Tội tôi nhiều lắm, đâu chỉ mỗi việc bóp cổ thằng Hân. Mà tôi cũng thấy mình phải trả giá cho những việc mình làm là hợp với luật đời. Giãy giụa, kêu gào làm gì nữa, cũng chỉ như con chó trước khi bị chọc tiết thôi.
Bằng bảo:
- Vậy Đàn cự tuyệt lòng tốt của tôi à?
Hắn bảo:
- Tôi rất cảm ơn ông nhưng ông đừng phí phạm lòng tốt vào việc cứu tôi làm gì. Tôi thấy nó hoang tưởng lắm.
Bằng có vẻ không hài lòng. Có lẽ anh ta không ngờ Đàn lại không mặn mà với đề nghị của mình, một đề nghị có ý nghĩa như một cây gậy thò ra cho người chết đuối. Bằng móc trong túi quần ra một miếng khô mực to bằng nửa bàn tay, bật lửa hơ nướng. Bằng đã quen với việc này nên động tác rất gọn. Khi miếng mực đã chín đều, quăn lại, teo tóp, Bằng cất bật lửa vào trong túi rồi xé mực đưa vào miệng. Hắn quan sát mọi động thái của Bằng và không hiểu được con người thực của Bằng hiện giờ là như thế nào? Ngay ngày xưa khi còn ở chung phòng với nhau hắn còn không hiểu được Bằng, thì bây giờ, với bao nhiêu những đổi thay của số phận, làm sao hắn có thể nắm bắt nổi Bằng. Vẻ thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt Bằng. Chẳng lẽ nét mặt kia là thật? Chẳng lẽ cái dáng vẻ sám hối kia là thật? Chẳng lẽ bao nhiêu năm qua trong khi hắn mỗi ngày một bị đẩy về cực xấu thì Bằng chuyển động về phía cực đối lập? Chẳng lẽ Bằng xách cặp đến đây thực sự không phải vì tiền, vì danh hay vì một lợi ích thiết thân nào đấy? Ôi chao, nếu vậy thì cuộc sống khó hiểu thật! Con người lại càng khó hiểu hơn!
- Đàn đã đọc kỹ cáo trạng chưa?
- Nhai xong miếng mực Bằng bỗng quay ra hỏi hắn.
- Đọc rồi
- Hắn đáp.
- Thấy họ viết thế nào? Có chỗ nào không đúng như Đàn đã làm không?
- Những điều họ viết còn ít hơn những việc tôi làm.
- Mấy hôm nữa ra toà Đàn cũng định trả lời như thế này sao?
- Như thế này là thế nào?
- Là nhận tất tần tật. Chẳng lẽ Đàn đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn thiết sống nữa?
- Biết làm sao được khi mà tôi không thể chối nổi những việc mình làm. Tất cả đã rõ ràng. Ông đừng xới tung lên cho mọi sự thêm rối rắm. Lúc này, thực sự tôi không cần điều ấy, tôi chỉ cần ông với ý nghĩa như một người đến thăm thân cho tôi đỡ buồn trong những tháng ngày này. Ông hiểu ý tôi không?
Bằng gật đầu, bảo:
- Thôi được rồi, tôi có thể sẽ không tham dự phiên toà, chỉ gửi lời bào chữa thôi. Tôi không đủ sức chịu đựng cảnh người ta tuyên tử hình Đàn. Lời tuyên án ấy xét đến cùng là tuyên cho cả thói sống ích kỷ, hợm hĩnh, ngông cuồng và ngu muội của tôi nữa. Nếu tất cả không bắt đầu từ đêm sinh nhật nghiệt ngã ngày nào thì có thể Đàn đã không như thế này. Tôi sẽ thường xuyên vào thăm Đàn và chuyện phiếm cho Đàn đỡ buồn. Đàn cần gì tôi sẽ mua giúp Đàn?
Hắn bảo:
- Tôi còn biết cần gì nữa bây giờ ngoài những câu chuyện phiếm của ông?
Bằng cúi xuống, nói nhỏ vào tai hắn:
- Tôi có thể giúp Đàn liên hệ với gia đình, Đàn có muốn nhắn tin cho ai không?
Hắn bảo:
- Thôi, nói chuyện khác đi, ông còn nhớ thầy Quý không?
Bằng gật đầu:
-
Thầy Quý bây giờ khá lắm. Thầy bảo vệ xong tiến sĩ rồi, sắp tới có thể thầy sẽ lên làm thứ trưởng. Tôi mới gặp thầy tháng trước.
Hắn hỏi:
- Thầy còn nhớ tôi không?
Bằng bảo:
- Nhớ. Thầy bảo trong số các học trò của thầy, thầy thương Đàn nhất. Thầy còn nói: "Đáng tiếc nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Tôi nghiệm ra một điều, cuộc đời mỗi con người là triền miên những lầm lỗi và hối hận, loài người sẽ chẳng thể thức tỉnh vì không ai sống được hai cuộc đời để mà nhận ra những lỗi lầm của mình.
Hắn bảo:
- Tôi có cảm giác ông vào đây mang theo cả một tâm trạng sám hối trong mình. Chẳng lẽ chỉ vì ông gặp một chút thua thiệt nào đó, như không có con chẳng hạn, mà ông sa vào những suy nghĩ u uẩn như vậy?
Bằng bảo:
- Thực ra tôi cũng chỉ là một kẻ ích kỷ thôi. Con người ta ai cũng vậy, chẳng ai muốn chết là chấm hết, là mất tất cả. Ai cũng muốn còn lại một cái gì đó, đấy là con cái. Tôi được hưởng lạc thú quá sớm để rồi cũng lại phải bó tay nhìn lạc thú đi qua trước mắt mình mà không sao lấy lại được. Tôi không còn khả năng ân ái nữa. Sự sống chắc cũng chẳng còn kéo được dài. Tôi sám hối bởi vì tôi còn lắm ham muốn. Con người ta là thế đấy. Sau sám hối sẽ lại là tội lỗi. Cái vòng luẩn quẩn ấy chẳng sao thoát ra được. Ngay động cơ đưa tôi vào đây với Đàn thực chất cũng chỉ là đi tìm một sự giải thoát mà thôi. Giải thoát để làm gì? Để hy vọng một điều gì đó tốt đẹp sẽ trở lại với mình chăng, ví như sẽ khỏi bệnh tật chẳng hạn, sẽ có con chẳng hạn. Nhưng có con rồi thì sẽ lại lao vào kiếm tiền để nuôi con bằng người, hoặc hơn người, và trong công cuộc kiếm tiền ấy ai dám chắc sẽ không phạm phải những lỗi lầm? Ôi, sao cái giống người cứ tưởng vĩ đại lắm mà nhỏ bé, tội nghiệp, đáng thương đến thế!
(Còn tiếp)
09:56 SA 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Đêm hôm ấy Hiến mang một chiếc giường gấp xuống buồng hắn, nửa nằm nửa ngồi, chuyện trò với hắn đến khuya. Hiến cho hắn uống thứ nước gì đó đen đen, nâu nâu, lại đắp lên vết thương ở bắp chân hắn một nắm lá giã nát, khiến người hắn cứ sốt li bì. Hiến bảo:
"Đầu đạn không còn nằm lại nhưng nó phá nát phần bắp thịt, có thể dẫn tới teo cơ. Thuốc này tẩy trùng rất tốt, sau đó sẽ đắp thuốc nối lành vết thương. Vết này miệng khá rộng và lòng rất sâu. Kháng sinh mạnh nên đêm nay và ngày mai Đàn sẽ sốt nhẹ. Khi sốt người ta thường hay ác mộng. Tôi ngồi đây nói chuyện với Đàn vào những lúc cắt cơn sốt để Đàn đỡ sợ. Khi cô độc quá người ta có thể cắn lưỡi tự tử. Vào những lúc như thế này kẻ mạnh bạo nhất lại thường là người mềm yếu nhất".
Hắn nằm nghe Đàn nói mà nước mắt cứ rỉ ra ở hai bên khoé mắt. Hiến bằng tuổi hắn mà sao Hiến đã có dáng vẻ của một tiên ông, một đạo sĩ cái gì cũng biết, cái gì cũng thông, cũng tỏ khiến hắn vừa e ngại lại vừa tủi hổ cho cái sự tối tăm, đểu cáng trong mình. Đúng là hắn ác mộng triền miên. Cứ hễ cơn sốt ập đến là y như rằng đài sen xuất hiện, quay tít, hắn bị buộc túm tứ chi, lủng lẳng phía dưới, ngột ngạt, rung vỡ, khó chịu lắm. Những lúc như thế hắn ở tình trạng bị bóng đè, toàn thân cứng đờ, tim ngừng đập, chới với, hun hút rơi vào một vòng xoáy vô hình nào đấy. Đèn vẫn sáng, nến vẫn cháy, trên tường bức ảnh sư tử đá nằm phủ phục, trên lưng đặt đài sen cho phật ngự mờ mờ, ảo ảo, bên cạnh Hiến vẫn ngồi như một pho tượng, thế mà hắn không sao cựa quậy được, không sao kéo được mình về với thực tại phảng phất u buồn này để tránh khỏi cái vòng xoáy khủng khiếp của cơn mộng mị. Phải rất lâu, hắn mới cử động được các ngón tay, rồi ngón chân, và cuối cùng là cựa quậy được thân mình để choàng tỉnh dậy. Hắn chỉ vào bức tranh treo ở trên tường, bảo Hiến:
- Cái đài sen kia nó cứ quay tít trong đầu tôi. Hiến bỏ nó ra treo ở chỗ khác được không? Tôi thấy kinh lắm.
Hiến bảo:
- Nếu không phải là đài sen này thì cũng sẽ là một cái gì đó quay tít trong đầu. Những hình ảnh khác sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều, ác mộng kia mà! Đàn cố gắng chịu đựng qua đêm nay, ngày mai thần thái sẽ ổn, mọi sự rồi sẽ lại trở về bình thường.
Hắn bảo:
- Hình như tôi ngửi thấy cả mùi hoa sen?
Hiến lắc đầu:
- Mùa sen qua lâu rồi. Đó là mùi trầm đốt ngoài ban thờ tổ đấy.
Hắn bỗng hỏi:
- Tại sao phật lại ngự trên đài sen hả Hiến?
Hiến không trả lời mà hỏi lại:
- Theo Đàn thì tại sao?
Hắn bảo:
- Có lẽ tại vì sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn chăng?
Hiến mỉm cười ý nhị, rồi nhẹ nhàng bảo:
- Sen có nhiều đức tính hợp với triết lý nhà phật. Sen ẩn sâu dưới bùn đất xa lìa trần cấu, gọi là u vi. Sen khiêm tốn, không khoe tài đua sắc với các loài hoa khác trên đồng nội gọi là ẩn vi. Lá sen ngửa rộng lên trời với những thớ mạch như nét vạch tự nhiên hút khí trời gọi là tế vi. Sen không sớm nở tối tàn mà sớm xoè thì tối cụp gọi là tuỳ nghi diệu. Sen mỗi năm một thân mới, một hoa mới gọi là hàn thử bất thiện diệu. Sen, hoa quây quần hạt, hạt xúm xít trong hoa, gọi là tổng biệt tề chương diệu. Sen vừa là hoa vừa là quả, gọi là nhân quả đồng thời diệu. Bởi có những ẩn vi cao quí đó mà sen được gần gũi Phật, nói được ý Phật, được chọn để Phật ngự. Đàn mơ thấy đài sen là ý tốt. Có lẽ tâm tính Đàn từ nay trở đi sẽ hướng thiện.
Mấy ngày hôm sau thì vết thương ở bắp chân hắn lành miệng. Buổi tối, Hiến bảo hắn:
- Đêm nay Đàn có muốn xem quỳnh nở không?
Hắn hỏi:
- Ở đâu?
Hiến bảo:
- Ở ngay khuôn viên của nhà chùa thôi.
Âm lịch hôm ấy là mười tám. Trăng vẫn còn sáng lắm. Hiến không muốn hắn chường mặt ra chỗ đông người vào ngày rằm nên mới chủ ý cho hắn ra sân xem hoa nở vào hôm đó. Khoảng chín giờ tối, chú tiểu cùng một cậu thanh niên độ mười chín, hai mươi vào buồng dìu hắn ra. Hiến đã ngồi đợi sẵn ở sân chùa. Lư hương bằng đồng đặt giữa sân toả mùi trầm ngào ngạt. Khóm quỳnh cao tới ba mét lúc lỉu những nụ là nụ. Trăng vẫn còn ẩn sau dãy núi xa nhưng Hiến đã cho tắt hết điện, cả ngôi chùa chỉ còn được thắp sáng bằng những ngọn nến to nhỏ đặt khắp các ban thờ, dọc hành lang, nơi hòn non bộ và trên bàn uống nước chỗ Hiến đang ngồi. Có ba chiếc ghế được đặt quanh bàn. Một chiếc Hiến ngồi, một chiếc dành cho hắn, còn một chiếc thuộc về cậu thanh niên vừa dìu hắn ra. Cậu thanh niên này có nét hao hao giống Hiến, khi cười cả khuôn mặt cậu ta bừng sáng bởi chiếc răng khểnh ở mép phải trông rất đáng yêu. Sau khi cậu ta rót nước ra chén mời hắn xong, Hiến mới quay sang hỏi hắn:
- Đàn có biết thằng bé này không?
Hắn lắc đầu. Hiến lại bảo:
- Không phải tự nhiên mà tôi lại mời Đàn ra đây vào một đêm trăng sáng như thế này để ngắm hoa quỳnh nở. Khung cảnh đêm nay có vẻ thần tiên quá, sách vở quá, nó chẳng hợp với Đàn, và thực ra, nó cũng chẳng hợp với tôi. Nhưng tôi biết với tôi những đêm như thế này thì còn nhiều, còn với Đàn, có thể sẽ là đêm cuối. Bởi vì Đàn khoẻ rồi, Đàn lại đi, cá nước chim trời, biết khi nào lại có một đêm uống trà, thưởng nguyệt, chờ hoa quỳnh nở. Một lý do nữa là vì đêm nay có liên quan tới cái tên khai sinh của thằng bé này. Cũng vào một đêm trăng cách đây mười chín năm, Đàn đã từng đặt tên cho nó đấy.
Hắn "à" lên ngạc nhiên rồi quay sang nhìn cậu thanh niên bên cạnh. Viên Minh! Chẳng lẽ đây là đứa bé con chị Tình, là đứa cháu gọi Hiến bằng cậu ruột? Không, hắn không còn nhận ra được một nét nào của đứa bé lên năm bê xảo khoai từ trên chùa đi xuống dưới chân núi hôm nào? Mà cũng đã quá xa rồi. Vật đổi sao dời. Cậu bé đẹp đẽ và tươi tắn quá. Cái tên Viên Minh mà hắn mò mẫm đặt bừa khi xưa giờ đã trở thành tên chính thức của chàng thanh niên này. Mới hay vòng đời của những đứa trẻ làng Áng Sơn như hắn và Hiến đã quay được quá nửa rồi.
- Viên Minh về chào tôi để tuần sau cháu nó sang Nhật dự triển lãm đồ gốm. Viên Minh bây giờ là sinh viên năm thứ hai trường Mĩ Thuật ở Hà Nội. Năm ngoái cháu được giải nhất Mĩ Thuật về gốm. Năm nay cháu được người ta mời đi trưng bày các tác phẩm gốm sứ. Đàn thấy đấy, cái gien nặn tò he của gia đình tôi hoá ra cũng có lúc thăng hoa. Cháu nó ở với tôi từ bé. Ăn cơm chùa mà học thành tài đấy Đàn ạ.
Hắn vỗ vỗ vai Viên Minh, trong lòng thấy vui mừng thật sự. Cả một thời khốn khó ngày nào mới như hôm qua thôi, còn nguyên vẹn trong trí óc hắn. Xét cho cùng cả hắn và Hiến đều chả sung sướng gì, đều hưởng đủ những đói kém, hèn mạt của kẻ nghèo khó. Bây giờ nhìn vào Viên Minh, Hiến thấy được khát vọng của mình nảy nở, hiện sinh giữa đời. Hiến mừng là đúng thôi. Còn hắn, hắn mừng vì thấy bạn hắn dù sao cũng được cuộc đời an ủi. Hiến đáng được hưởng nhiều hơn thế. Hắn mừng cho Hiến, vui cho Hiến và quả thực đến giờ phút này hắn mới thực sự hiểu Hiến, ơn Hiến, phục Hiến. Viên Minh có vẻ ngượng ngùng trước thái độ của hắn. Hiến bảo:
- Cháu đưa tập ảnh chụp các tác phẩm của cháu cho cậu Đàn xem.
Viên Minh đứng lên bước qua sân đi vào phía trong chùa, lát sau cậu ta mang ra một chiếc cặp nhỏ hình chữ nhật. Hắn đón nhận tập ảnh từ tay Viên Minh, lật xem lướt qua từng chiếc một. Đến chiếc cuối cùng thì Hiến bảo:
"Đây là cái được giải đấy, Đàn thấy đẹp không?"
. Hắn dừng lại ngắm nghía bức ảnh chụp một khối gốm sành sần sùi, thô ráp, màu gạch non có hình ba chú trâu tựa vào nhau, dáng vươn khoẻ như một dãy núi, nâng lên ba đứa trẻ mục đồng. Viên Minh chỉ tay vào bức ảnh giảng giải thêm:
"Kế bên dáng ngả của ba trẻ mục đồng là ba cánh diều đợi gió, hay có thể hiểu là ba mảnh trăng, ba con thuyền, ba chiếc lá đang đậu nhẹ vào nhịp đồng dao. Còn những khoảng tròn, những hình âm dương này mô phỏng xoáy đuôi, xoáy mắt, xoáy đùi của những con trâu. Thông điệp của bức gốm sành này là đời sống nông thôn, nông nghiệp còn mãi trong tiến trình lịch sử của dân tộc, nó sẽ là nền móng, là điểm tựa vững trãi cho mọi ước mơ, khát vọng".
Vừa nghe Viên Minh nói, hắn vừa ngước lên nhìn những nụ quỳnh đang đồng loạt mở cánh. Hương trầm thơm ngát, lan toả. Trăng đã ló rạng, vằng vặc một không gian rộng lớn. Chén trà trên tay hắn ngào hương sen thanh nhã. Hắn bỗng quay sang hỏi Hiến:
- Hiến ơi, suốt bao nhiêu năm tu hành Hiến đã hiểu được gì về đạo?
Hiến ngồi trầm ngâm như một pho tượng khi nghe hắn hỏi câu ấy. Một lúc lâu sau Hiến mới bảo:
- Sở học khôn cùng, đời tu cũng lắm nẻo. May ra tôi mới đạt được hai phép Nhân thừa và Thiên thừa thôi.
Hắn lại hỏi:
- Hai phép ấy nghĩa là gì?
Hiến đáp:
- Tu Nhân thừa là qui y tam bảo: Phật - Pháp - Tăng và tuân theo năm điều cấm: sát sinh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, tửu.
Hắn bảo:
- Tôi tạm hiểu. Thế còn Thiên thừa?
Hiến đáp:
- Tu Thiên thừa tích cực hơn Nhân thừa, ngoài những điều cấm đoán trên, còn làm việc thiện, mười điều cả thảy, gọi là thập thiện nghiệp.
Hắn hỏi:
- Là những điều gì?
Hiến đáp:
- Gồm có sửa thân ba phép: Phóng sinh, bố thí, tiết chế thị dục. Sửa miệng bốn phép: Chân thật, không thêu dệt, không nói độc ác, không xúi giục người khác thù ghét nhau. Sửa ý ba phép: Không tham, sân, si. Đây là hai phép tu sơ đẳng và thấp nhất của đạo, tôi e là mình chỉ đạt được đến phép thứ hai này thôi.
Hắn hỏi tiếp:
- Vậy còn những phép nào nữa?
Hiến đáp:
- Còn ba phép nữa. Tu Thinh văn, tu Duyên giác và tu Bồ tát thừa. Những phép tu này cao siêu và huyền nhiệm lắm. Ở Thinh văn thì nhờ Phật mà xuất ly khổ, còn Duyên giác thì tự giác mà được giải thoát. Còn Bồ tát thừa là phép tu của các đấng chí tôn, không chỉ tự giác ngộ mà còn nguyện đem chỗ giác ngộ của mình mà dạy chúng sinh cùng giác ngộ theo.
Hắn bảo:
- Đã bắt đầu thấy loạn óc và khó hiểu rồi đấy. Hiến có thể nói cho tôi một cách đơn giản nhất về cái phép tu cuối cùng, phép Bồ tát thừa ấy được không?
Hiến đáp:
- Tôi cũng đang cố gắng hiểu nó mà chưa hiểu nổi. Nói chung tu Bồ tát thừa là tu theo sáu phép ba la mật hay còn gọi là tu lục độ, tức là sáu phép độ ta qua bờ bên kia của chính giác. Sáu phép ấy là Bố thí ba la mật, Trì giới ba la mật, Nhẫn nhục ba là mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền định ba la mật và Trí huệ bát nhã ba la mật.
Hắn ôm đầu choáng váng nhưng vẫn cố gượng hỏi:
- Phép thứ nhất ấy được hiểu như thế nào?
Hiến bảo:
- Bố thí ba la mật gồm Tài thí, Pháp thí và Vô uý thí. Tài thí là bố thí của cải, Pháp thí là bố thí phập pháp, Vô uý thí là bố thí lòng dũng cảm, bố thí cái "Không sợ". Ở phép tu này...
Hiến nói đến đây thì hắn ngất xỉu, đầu gục xuống bàn, gạt đổ cả tách trà chú tiểu vừa châm, còn đang bốc khói. Hiến vội đưa hắn vào trong nghỉ. Đêm bắt đầu nối canh. Hiến còn lại một mình, ngẩng đầu nhìn trời rồi đưa tay lên bấm từng đốt.
"Không kịp rồi!"
, Hiến lẩm bẩm. Những ngọn nến cháy hết lần lượt tắt phụt. Ngôi chùa chìm vào yên ắng. Hiến bước về trai phòng, ngồi xếp bằng vừa đọc kinh vừa lần tràng hạt. Trăng trôi trên nóc chùa, đến khi mệt nhoài mờ nhạt nơi góc trời thì những bông quỳnh thay nhau héo rũ.
Buổi sáng hôm sau, vị sư trẻ trụ trì chùa Áng Sơn vừa kéo cửa phòng bước ra ngoài thì vấp ngay phải hắn đang phủ phục trước thềm. Sư Pháp Thiện kinh hãi, giật lùi trở lại, miệng lắp bắp:
- Kìa Đàn! Đừng quì thế, vết thương ở chân chưa lành đâu...
Hắn ngẩng đầu lên, khẩn cầu:
- Xin đại đức hãy nhận tôi vào chùa, không còn cánh cửa nào mở ra cho tôi nữa rồi, tôi xin làm đệ tử cho đại đức, xin suốt đời làm tiểu ở đây. Xin đừng từ chối.
Sư Pháp Thiện không ngờ hắn lại thay đổi nhanh đến thế, sau những phút bối rối, nhà sư trẻ bảo:
- Phạm luật trời thì trời phạt, phạm luật đời thì đời trị, phạm luật người thì người đòi. Đàn chưa trả hết nợ cho đời, chưa thể vào chùa được. Người của đời đến đòi Đàn kia kìa. Đàn hãy vui vẻ ra với họ đi. Nhân ấy thì quả này, không tránh được đâu.
Hắn từ từ quay đầu lại. Cổng chùa đã mở rộng từ bao giờ. Ngay bậc tam cấp bước xuống sân chùa năm, sáu người mặc cảnh phục đang đứng sẵn đợi hắn. Hắn lại nhận ra khuôn mặt quen quen có nốt ruồi to bằng đầu đũa ở đuôi mắt trái. Người này bước lên thềm, tiến đến chỗ hắn và tra chiếc còng số tám vào hai cổ tay hắn. Hắn được xốc dậy đưa ra sân. Chiếc Xít đờ ca đỗ ngoài cổng chùa chỉ chờ hắn ngồi lên nữa là lao xuống chân núi. Hắn quay lại nhìn ngôi chùa lần cuối, thấy vị sư trẻ đang đứng trước điện nhìn theo hắn. Không thể nào biết được sư Pháp Thiện đang nghĩ gì. Vị sư trẻ này đã thức trắng đêm để sáng nay đưa tiễn một tội đồ về nơi anh ta phải chịu những phán xét. Chú tiểu tiến đến bên cạnh, bẩm:
"Thưa thầy, xe đã đi xa rồi, mời thầy rửa mặt rồi vào dùng trà ạ".
Sư Pháp Thiện khẽ gật đầu nhưng lại đi ra chỗ khóm quỳnh. Nhà sư đưa tay cầm lên từng bông quỳnh mềm oặt, héo rũ, lẩm bẩm một câu gì đó rồi mới thủng thẳng bước lên trai phòng.
Bình minh bắt đầu ló rạng trên đỉnh tháp chuông.
(Còn tiếp)
09:50 SA 18/08/2016
Hồ sơ một tử tù
Chương 8
Hắn đã ăn hết bốn túm oản đại, vị chi là hai mươi chiếc, cả một hàng trên của nải chuối chín, vị chi là mười quả, uống hết hai lon bia và hút hết nửa bao thuốc lá, mới ngẩng mặt lên nhìn cho kỹ gã thầy chùa có khuôn mặt đẹp như Đường Tăng trong phim Tây Du Ký đang ngồi đối diện với hắn.
"Hiến!"
Hắn bỗng vỗ bốp vào trán rồi hét lên làm vị sư trẻ giật cả mình.
- Đúng là Hiến rồi, Hiến ơi. Mày có biết tao khổ thế nào không hả Hiến. Cuộc đời chó má lắm. Run rủi thế nào tao lại gặp mày trong tình cảnh này. Nhìn mày thanh thản thế kia tao thấy đời tao khốn nạn quá. Tao..
-
Đàn đừng nói nữa -
Vị sư trẻ phẩy ống tay áo cắt ngang lời hắn -
Đây là nhà chùa, còn có kẻ ra người vào, hiệu của tôi là Pháp Thiện, bậc tu là đại đức. Đàn cứ bình tĩnh nghỉ ngơi. Mọi chuyện đâu sẽ có đó. Chuyện trò từ từ, đừng hét toáng lên như thế, không tiện.
Chà, chà. Thằng Hiến bây giờ là thế này ư? Hắn cứ ngồi nhìn trân trân vị sư trẻ. Khuôn mặt Hiến thanh tú quá. Đôi mắt phảng phất u buồn nhưng ánh lên những tia minh triết. Đầu cạo trọc nhưng chân tóc vẫn đâm ra lúp xúp. Môi Hiến vẫn đỏ và hàm răng thì trắng đến độ con gái cũng phải phát thèm. Dáng người vẫn mảnh mai và nhìn bộ quần áo nâu đang mặc trên người thì rõ ra đây là một vị sư khoáng đạt, trưởng giả. Hắn lại đưa mắt nhìn khắp gian phòng mà hắn và Hiến đang ngồi. Chẳng thiếu thứ gì cả, sạch sẽ, đầy đủ, thậm chí hắn không thể ngờ được cuộc sống tu hành lại sướng như thế này. Giường mét hai được đóng bằng gỗ lim nâu bóng, hoa văn uốn lượn kiểu cách, trên trải đệm dày, chăn gối sạch bong, nhìn đã thấy ấm áp. Giá sách có kính bọc ngoài, bên trong bày các gáy sách vừa dày, vừa bóng, xanh, đỏ, tím, vàng đủ màu, gợi cho người ta nghĩ đến một vốn học vấn không xoàng của chủ nhân căn phòng. Trần, tường đều ốp gỗ hoặc nhựa, nền lát đá hoa hình chữ nhật kiểu to, sang trọng, cửa ra vào đẩy trên vòng bi như nhà của người Nhật, có đôn sứ, chậu hoa, cây cảnh, có tủ lạnh, có máy nghe nhạc, có loa gắn trên góc tường, có giá để giày dép, có bàn viết đặt đèn chụp, có ảnh Đức Phật và những bức thư pháp treo trên tường. Tóm lại là hắn thấy đi tu mà như thế này thì hắn cũng... đi tu được.Trước kia ở trường hắn được người ta dạy rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Hắn cũng chỉ biết thế chứ chưa hiểu cụ thể một cái tôn giáo nó ra thế nào. Bây giờ thì hắn rơi tõm vào ngôi chùa này, bỗng thấy cái vốn hiểu biết của mình nó nông cạn quá, chẳng đủ tự tin để đối thoại với vị sư trẻ kia, thằng Hiến của hắn ngày nào. Hắn bỗng nghe thấy tiếng chuông. Ôi chao là cái tiếng chuông chùa. Sao mà nó ảo não, thê lương đến thế?
- Bao nhiêu tiếng mà sao cứ thấy kêu mãi thế hả mày?
- Hắn đột ngột quay sang vị sư trẻ hỏi. Rồi như chợt nhận ra cái cách nói năng rất không hợp với cửa chùa của mình, hắn liền đổi giọng -
Thôi, Hiến ơi, ông thương tôi, ông thông cảm cho tôi, đừng bắt tôi phải gọi ông bằng cái pháp hiệu lạ hoắc đó. Hãy cho tôi gọi ông như ngày nào chúng ta chơi với nhau. Tôi bây giờ chẳng ra cái gì nữa rồi. Ông cho tôi ở được ngày nào thì tôi biết ngày đó. Rồi tôi lại đi..
- Đàn đang hỏi về tiếng chuông phải không?
- Vị sư trẻ có vẻ như không quan tâm đến những lời lẽ có phần như khẩn nài của hắn, cất lên một thứ giọng hiền hậu -
Tất cả một trăm linh tám tiếng cả thẩy, nó sẽ xua đi một trăm linh tám điều phiền não ở mỗi con người. Đạo phật cho rằng ở mỗi con người luôn tồn tại ba kiếp: quá khứ, hiện tại và tương lai, lại do ba cái ái dục gắn với lục căn cộng với lục trần mà thành một trăm linh tám điều phiền não. Con số một trăm linh tám cũng là con số ấn định cho các vòng tràng hạt. Mỗi lần niệm phật là một hạt lần qua, cứ thế đảo đi đảo lại như kiếp luân hồi của con người, không bao giờ dứt. Đàn học nhiều mà không hiểu điều sơ đẳng đó ư?
Lần đầu tiên hắn nhận thấy sự thú vị từ những triết lý phật giáo mà Hiến đang giảng giải. Ừ nhỉ, tại sao hắn lại không từ từ tìm hiểu cái cuộc sống đặc biệt này? Nó phải như thế nào đấy mới có thể giữ chân được cậu bạn thời thơ bé của hắn suốt mấy chục năm qua chứ. Hắn thu mình lại và cố ăn nói sao cho nhã nhặn hơn:
- Tôi hiểu rồi. Nhưng quả thật tiếng chuông đối với tôi lúc này kinh khủng quá. Hiến ở đây một mình à? Chùa có đông người không?
- Thầy tôi viên tịch được hai năm rồi. Bây giờ tôi làm trụ trì chùa này. Ngoài ngày rằm, mồng một ra ở đây chỉ còn một chú tiểu nữa thôi.
- Liệu công an có mò lên đây không hả Hiến? Hiến cho tôi tá túc ít ngày Hiến nhá? Tôi bây giờ cùng đường rồi Hiến ạ.
- Cái gì đến rồi sẽ đến. Tất cả cái gì đang chờ Đàn ngày hôm nay đều do Đàn gây ra cả thôi.Gieo gì thì gặt nấy. Tôi không giúp Đàn nhưng tôi cũng không hại Đàn. Cửa chùa bao giờ cũng rộng mở cho Đàn đến và Đàn đi.
Hắn chợt nhận ra một điều rằng, Hiến bây giờ đã ngấm quá sâu triết lý nhân sinh của đạo phật rồi. Hắn không muốn nói chuyện với vị sư trẻ lúc nào cũng đạo mạo, tĩnh tại kia. Hắn muốn được nói chuyện thẳng thắn, chân tình với thằng Hiến bán tò he ngày nào cơ. Nhưng cái thằng Hiến ấy có còn tồn tại không trong dáng người mảnh khảnh, nước da trắng xanh có hiệu là Pháp Thiện kia?
Phải hai ngày sau hắn mới dần dần hiểu được con người Hiến. Hắn mặc quần áo nhà chùa, đầu đội mũ len bịt kín tai. Những lúc Hiến bận hắn cùng chú tiểu lau dọn tượng phật, bệ thờ, gánh nước, nấu cơm, trồng rau, quét sân, nhổ cỏ... Hắn quan sát mọi ngóc ngách, hình khối, biểu tượng và luôn mồm hỏi chú tiểu về ý nghĩa của từng vật được bày trong nhà chùa. Bây giờ thì hắn đã thuộc tên được các vị phật theo thứ tự bày trên bệ thờ. Nào là tượng tam thế, tượng Adiđà, tượng Thích Ca, tượng Di Lặc, tượng Tuyết Sơn, tượng Thích Ca nhập niết bàn, tượng Thích Ca sơ sinh. Rồi Thiên Lôi, Thổ Địa, các vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương, Thánh Tăng, Hộ Pháp, Đức Ông. Ngoài ra còn nhiều tượng khác nữa, mỗi tượng gắn liền với một sự tích nào đó. Hắn sẽ tìm hiểu dần dần vì thực sự, hắn thấy thích thú. Hắn chỉ vào một pho tượng tạc một người phụ nữ trẻ đẹp, bế đứa trẻ, có con chim vẹt đậu trên vai, hỏi:
- Đây là tượng ai?
Chú tiểu bảo:
- Tượng Quan Âm tòng tử, thờ Đức Thị Kính.
Hắn ngạc nhiên:
- Sao lại có con vẹt đậu trên vai là nghĩa gì?
Chú tiểu lắc đầu:
- Cái này bác phải hỏi thầy tôi:
Hôm sau hắn hỏi Hiến. Hiến bảo:
- Con vẹt ấy tượng trưng cho chàng Thiện Sỹ, chỉ biết học như vẹt mà chẳng hiểu gì về sự đời cả, Phật cho biến thành con vẹt để bay đi cắp oản chuối về nuôi đứa trẻ.
Tới mười pho tượng ông già râu dài, mặt nghiêm nghị ngồi trên bục thành hai hàng trong thượng điện làm nhiệm vụ cai quản và chuyển kiếp cho người chết qua mười cửa ngục dưới âm phủ, hắn đứng xem rất lâu. Liệu có âm ti, địa ngục như thế kia thật không nhỉ? Cảnh quỉ sứ cưa xẻ thân người, bắt người ngồi trên bàn chông, nấu người trong vạc dầu, bắt người leo qua cầu bôi mỡ, hàng đàn chó ngao, thuồng luồng chờ sẵn... thực sự gây ấn tượng đối với hắn. Chẳng lẽ chết đi rồi mà hắn vẫn còn phải trải qua những cực hình thảm khốc như thế kia nữa sao? Hiến có vẻ thấu hiểu tâm trạng của hắn. Lúc đầu Hiến cũng ngạc nhiên về thái độ hắn. Hiến tưởng hắn trốn chui trốn lủi vài ngày cho qua cơn bĩ cực rồi sẽ rời chùa mà đi. Không ngờ hắn tỏ ra bằng lòng với cuộc sống thanh bần ở chùa. Hắn muốn được làm mọi việc thay chú tiểu, và lắng nghe mọi lời thuyết giảng của Hiến. Hắn chỉ vào hai ông Hộ Pháp ngồi trên lưng sư tử ở ngay cửa điện thờ chính, hỏi Hiến:
- Đây có phải là ông Ác và ông Thiện không?
Hiến bảo:
- Phải.
Hắn lại hỏi:
- Sao không thấy cầm đại đao mà lại cầm ngọc và búp măng?
Hiến bảo:
- Thầy tôi muốn mô phỏng hai ông này đúng như trong tích cũ. Hai vị này vốn là hai anh em khác mẹ cùng cha, con vua Đề Bà Đạt Đa. Vua sai hai anh em đi tìm ngọc quí, ai tìm được ngọc sẽ được nhường ngôi. Người em tìm được ngọc quý nhưng trong lúc ngủ say đã bị người anh lấy búp măng chọc mù mắt để đoạt ngọc. Người em được Phật cứu giúp, lành lại mắt, cả hai anh em liền bái phục xin tu theo Phật. Phật giác ngộ hai vị, đặt tên người em là Thiện hữu người anh là Ác hữu, có nhiệm vụ bảo vệ phật pháp nên gọi là Hộ Pháp. Thầy tôi cho đặt ôngThiện cầm viên ngọc, còn ông Ác cầm búp măng. Cũng có nhiều chùa đặt tượng như thế này.
Hắn gật gù thú vị rồi lại chỉ lên dải lụa có hình con quạ treo trên chiếc cột dựng ngoài sân chùa, hỏi:
- Cờ kia là cờ gì?
Hiến bảo:
- Đó là dải phướn, hay còn gọi là pháp tràng, không phải cờ.
Hắn lại hỏi:
- Sao lại có hình con quạ? Trông cứ như là cờ của bọn cướp biển ấy.
Hiến bảo:
- Con quạ ấy nhắc đến một tích chuyện của nhà Phật. Ngày xưa có một bà vãi vẫn thường mượn danh khuyên giáo cúng phật nhưng lại toàn lấy làm của riêng cho mình. Một hôm bà này gặp một tên tướng cướp. Tên cướp này muốn cải tà qui chính nên hỏi bà già cần phải dâng gì cúng phật. Bà già nói với tên cướp rằng đó là việc tuỳ tâm, cúng gì cũng được, phật đều chấp thứ. Tên cướp liền mổ bụng mình ra lấy cả bộ ruột dâng lên cúng Phật. Bà già kia nhận bộ ruột đó nhưng về ngang qua đường thì vứt đi. Con quạ cắp bộ ruột vào đậu ở nóc chùa kêu mách. Phật thấu nỗi, cho anh kẻ cướp thành Phật, ruột biến thành pháp tràng, nêu gương cho đời về tấm lòng cúng Phật. Thường thì vào ngày lễ các chùa mới treo dải phướn kia. Cách đây một tuần chùa tôi vừa có lễ lớn nên cây cột vẫn còn dựng ở đó.
Hắn nghe xong giật mình nhìn sang Hiến. Sao cái thằng cha này thuyết giảng cái gì nghe cũng kinh thế nhỉ? Hay là hắn cố tình đánh động vào cái thằng tù sổng trong hắn? Vô ích thôi. Hắn không đủ bản lĩnh để mổ bụng mình ra đâu. Hắn đã muốn chết nhiều lần mà chả chết được. Bây giờ thì chẳng còn ai giúp hắn siêu thoát được nữa rồi.Chỉ có mười tầng địa ngục kia đang chờ hắn mà thôi. Nhưng dẫu sao hắn cũng phải thừa nhận rằng mấy ngày ở bên Hiến hắn thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhõm quá chừng. Cuộc sống nhà chùa quả thật sung túc hơn hắn tưởng. Hắn cũng bắt đầu lý giải ra được vì đâu mà chùa có nhiều tiền của đến thế. Số người giàu có bây giờ nhiều lắm. Sinh hoạt tôn giáo lại thoải mái hơn ngày xưa rất nhiều. Thế là người đến chùa tìm vui cũng có, để giải thoát về mặt tâm linh cũng có, để cúng cả người sống lẫn người chết vào chùa cũng có, để làm công việc bố thí cũng có, để được ghi công đức cũng có. Bao nhiêu kiểu người đến chùa là có bấy nhiêu nguồn thu. Thảo nào chùa được xây dựng khang trang, đẹp đẽ thế. Thảo nào nội thất chùa đàng hoàng, đầy đủ thế. Thảo nào giới tăng ni có nhiều xe máy thế. Cái đầu óc thực dụng bởi đã sống quá lâu ở bãi vàng của hắn cứ óc ách những ý nghĩ đốn mạt như vậy. Hòm công đức để ở đâu nhỉ? Cả chiếc xe máy Dream của Hiến nữa. Tao sẽ mượn tất cả của nả của mày để rời khỏi nơi đây, rời khỏi cái đất nước khốn khổ này để tìm đến một thế giới khác. Khi nào có điều kiện tao sẽ gửi trả cho mày, trả xông xênh, trả lãi năm lãi mười. Mày đừng trách tao Hiến nhé. Bây giờ tao trắng tay, tao lại cùng đường. Tao chỉ có mỗi bộ ruột lép kẹp này thôi, chẳng thể dâng cho mày làm tin được. Nhưng tao hứa là tao chỉ mượn mày mà thôi. Rồi tao sẽ trả. Sẽ trả.
Đúng mười hai giờ đêm thì hắn mò dậy. Hiến bố trí cho hắn ngủ ở sau nhà thờ Tổ. Hắn nhẹ nhàng mở cửa ra, bước từng bước thật êm tới trai phòng của Hiến. Trong tay hắn có một chiếc áo khoác ngoài. Hắn sẽ buộc phải dùng đến nó để buộc những cái miệng nào có thể phát ra tiếng kêu. Hắn khẽ đẩy cánh cửa phòng Hiến. Giường trống không. Trên bàn có một cây nến đại đã cháy được một phần ba, đủ soi sáng cả căn phòng. Hắn hơi ngại ngần vì không biết Hiến đi đâu. Giữa lúc hắn đang hành sự mà vị sư trẻ đột ngột quay trở về phòng thì sẽ khó xử lắm. Đứng im quan sát một lúc, tai căng ra nghe ngóng nhưng vẫn không thấy có gì bất thường, hắn liền bước vào phòng và tiến đến vách tủ nơi Hiến vẫn treo chùm chìa khoá. Ngay bên dưới vách tủ là chiếc bàn. Giữa chiếc bàn là ngọn nến đang cháy. Chùm chìa khoá xe máy và một gói giấy nhỏ được đặt ngay ngắn dưới chân ngọn nến. Hắn hơi sững người lại rồi thò tay cầm lên chùm chìa khoá. Lúc này những dòng chữ trên tờ giấy trải rộng trên mặt bàn mới đập vào mắt hắn. Tự nhiên hắn thấy run bắn cả người. Hắn cầm tờ giấy lên, vừa đọc, mồ hôi vừa toát dưới chân tóc.
...Tôi đã nhìn thấy ám khí nặng nề trong mắt Đàn buổi chiều hôm nay. Tội ác sẽ lại diễn ra dưới bàn tay của Đàn. Tôi không muốn sáng mai người ta sẽ kinh hoàng khi phát hiện ra xác chết của hai thầy trò tôi trong ngôi chùa này. Dục vọng được thoả mãn thì cái ác tạm thời bị triệt tiêu. Đàn hãy cầm tiền, cầm xe và rời khỏi chùa đi. Tôi chẳng có gì cho Đàn cả. Tất cả là của chùa. Lộc chùa ai muốn hưởng thì cứ hưởng. Có lại về không, không lại thành có. Ngày xưa Đàn đã những muốn thử treo tôi lên cây cột ở trường bắn, bây giờ tôi không muốn bị Đàn treo lên dưới dải phướn giữa sân chùa. Đàn hãy đi đi và hãy tự cứu rỗi cho chính mình...
Hắn đưa tay lên vuốt mồ hôi mặt, cố dằn xuống cái tâm trạng lén lút bị bắt quả tang. Hiến đã tính đến nước này thì hắn cứ yên tâm cầm tiền, dắt xe mà đi, chẳng phải lo gì cả. Nhưng Hiến ơi, thế này thì mày sẽ coi tao ra cái thứ gì hả Hiến? Mày vẫn là thằng bạn tốt nhất trong cuộc đời tao. Cái tốt của con người chỉ có thể đo bằng đánh đổi sự sống. Đã có lúc tao nghĩ sẵn sàng đánh đổi sự sống của tao nếu có thể giúp được mày điều gì đó. Nhưng rồi tao cứ hàm ơn mày mà chẳng giúp được gì cho mày. Một kẻ tu hành thì có thiết thứ gì trên đời này đâu để tao có cơ hội được trả nợ? Nhưng thôi, lúc này tao đang cần những thứ này của mày. Tao mượn tạm, hưởng tạm chút lộc chùa rồi lại hoàn cúng về chùa sau. Hắn rút chiếc bút ở lọ ra, viết xuống bên dưới những dòng chữ của Hiến:
Cái thằng khốn nạn này xin lạy mày một lạy!
Rồi hắn quay ra hành lang, tra chìa vào ổ khoá, mở máy, dắt xe đi. Trên người hắn vẫn là bộ áo nâu nhà chùa. Trên đầu hắn vẫn là chiếc mũ len màu nâu, được kéo xuống bịt kín tai. Hắn rời khỏi chân núi chưa bao xa thì những chốt barie, những bóng dân phòng trộn lẫn với sắc màu cảnh phục đập vào mắt hắn. Tất cả các con đường dẫn ra khỏi khu vực này đã được kiểm soát chặt chẽ. Người ta không dễ dàng bỏ đi khi tóm hụt hắn. Họ đã mất quá nhiều công sức theo đuổi hắn suốt từ bãi vàng Lũng Sơn về đây. Con cá đã nằm trong nơm rồi, chỉ cần lựa tay khua để bắt cho gọn nữa thôi, không được phép sơ sểnh, không được để cái ác thoát ra khỏi vòm nơm lúc này. Trường đời đã dạy cho hắn kinh nghiệm phát hiện và lẩn tránh những nguy hiểm, lần này hắn ngửi thấy mùi hiểm nguy đang vây bủa xung quanh nhưng hắn phải liều thôi. Với bộ quần áo thầy tu trên người hắn có thể qua mắt được những cặp mắt cú vọ kia. Hắn hưng phấn lướt xe đi. Nhưng đột nhiên hắn phanh sững lại. Cả xã này chỉ có một ngôi chùa. Người trong xã ai chẳng biết mặt vị sư trẻ trụ trì ở đó. Đêm hôm như thế này nhà sư đi đâu? Mấy tên dân phòng ngứa mồm lên lại hỏi tu ở chùa nào, căn cước đâu, sao lại đi xe của sư Pháp Thiện ở chùa Áng Sơn, biển số xe kia ai chẳng thuộc, chẳng biết, thì hắn sẽ phải trả lời ra sao? Ngẫm nghĩ một lúc, hắn quyết định cởi bỏ bộ quần áo nhà chùa ra. Để khi nào rời khỏi cái huyện này hắn sẽ dùng đến. Rồi hắn vốc bùn ở dưới ruộng trát vào biển số xe. Riêng chiếc mũ len hắn vẫn để nguyên trên đầu, có kéo xuống cho che bớt cái mặt đi. Yên tâm với bộ dạng mới, hắn lại lên xe, phóng vụt về phía trước. Chưa tới chốt canh phòng đầu tiên thì hắn đã bị "tít" lại rồi. Ở đâu mọc ra ngay trước mắt hắn một chiếc xe Xít đờ ca đỗ bên thành ruộng cùng ba người mặc cảnh phục, hai người mặc dân sự lẫn trong bóng tối nhập nhoà. Họ yên cầu hắn dừng lại kiểm tra giấy tờ xe. Hắn bàng hoàng khi nhận ra một trong hai người mặc dân sự chính là người đã vồ hụt hắn ở Trạm Đá mấy hôm trước. Chiếc mụn ruồi ở mắt trái to bằng đầu đũa kia thì không thể lẫn vào ai được. Trong lúc loay hoay móc túi lấy giấy tờ xe hắn liếc thấy người đàn ông mặc dân sự lùi lại sau thành xe Xít đờ ca, rút đèn pin ra soi vào một vật gì đấy, nhỏ bằng bàn tay. Thôi chết, chắc họ đang xem ảnh truy nã. Đúng lúc ấy có thêm một chiếc xe máy nữa đi đến. Thấy người cảnh sát trước mũi xe hơi lơ đãng, hắn liền bật khóa, mở máy rồi rú ga phóng vọt đi. "Đứng lại, Bạch Đàn, anh đừng trốn chạy, vô ích", người đàn ông có vết ruồi to bằng đầu đũa hét lên như vậy, và anh ra rút súng ra bắn chỉ thiên. Chiếc xe Xít đờ ca lập tức được nổ máy, chuyển bánh đuổi theo hắn. Cứ chạy theo đường xã chắc chắn sẽ bị bắt. Hắn liền rẽ vào đường bờ ruộng. Chiếc xe Xít đờ ca phải dừng lại, mấy bóng người trên đó vội nhảy xuống, rọi đèn pin về phía hắn, vừa đuổi theo vừa vẩy súng, đạn đi veo véo bên chân hắn. Họ cố vô hiệu hoá chiếc xe máy mà hắn đang sử dụng nhưng không viên đạn nào trúng lốp cả. Bỗng nhiên hắn thấy đau nhói như bị một nhát dùi lửa đâm vào bắp chân. Hắn hoảng hồn, vê ga hết cỡ, chiếc xe nhảy chồm chồm trên mặt thành ruộng. Hết phần ruộng xe hắn lại đâm vào đường lên chùa Áng Sơn. Tất cả bỗng trở nên im ắng đến khó chịu. Đầu hắn quay cuồng với hàng trăm ý nghĩ không đầu không cuối. Sự im lặng này là khoảng lặng trước khi tấm lưới chụp xuống đầu hắn chăng? Điện đàm đã được nối giữa các tổ chốt canh phòng và tất cả các con đường ra khỏi xã đã bị thít chặt lại rồi chăng? Bóng đêm tan loãng ra rồi, ánh ngày sắp xuất hiện rồi, cái mặt hắn sắp lồ lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật, không tìm ra được nơi ẩn nấp nhanh thì lại khốn nạn thân tù bây giờ. Nhưng trốn đi đâu? Làm gì còn chỗ nào cho hắn dung thân nữa bây giờ. Hắn bỗng thấy âm ấm ở bắp chân. Chết cha rồi. Máu cứ rỉ ra thế này sẽ rất tai hại. Hắn móc trong bọc ra chiếc áo nâu nhà chùa, đưa lên miệng dùng răng xé roàn roạt rồi cúi xuống buộc chặt chỗ máu rỉ. Vẫn chưa yên tâm, hắn lại buộc thêm cả chiếc giày dưới bàn chân phải nữa. Như thế máu sẽ không rỉ xuống đường, không làm dấu cho người đàn ông có nốt ruồi đen ở mắt trái kia tìm đến bắt hắn.
Xong xuôi, hắn lao xe vào con đường dẫn lên chùa Áng Sơn. Khi hắn tới trước cổng tam quan thì cũng là lúc ánh ngày đang bắt đầu buông xuống. Như chờ đợi sẵn, chú tiểu mở cổng chính cho hắn vào, sau đó cánh cổng lại được khép lại. Hắn dựng xe ngoài thềm sân rồi tập tễnh bước vào phòng khách ngay phía ngoài nhà thờ tổ. Hiến đang ngồi đó, khuôn mặt đẹp như thiên thần, ánh mắt có phần nghiêm nghị nhưng vẫn chưa hết những tia ấm áp. Hiến chỉ cho hắn ngồi vào chiếc ghế đối diện rồi rót nước mời hắn.
- Hãy uống chén trà nóng này đi. Rồi sương sẽ tan, nắng ấm sẽ đến, lòng người sẽ thanh thản, bận tâm làm chi đến những lẽ vô thường.
Hắn đứng lên đặt chùm chìa khoá và gói tiền xuống trước mặt Hiến, bảo:
- Tôi trả lại cho ông đây. Tôi tận kiếp rồi. Bây giờ ông cho tôi một dải lụa hay một chén thuốc độc, tôi xin lạy ông ba lạy.
Hiến thấy hắn nhăn mặt vì đau, liền bảo:
- Bây giờ Đàn vào trong kia nằm. Để tôi bảo tiểu mang nước nóng lên xem cái chân kia của Đàn thế nào. Nếu nặng thì phải mời bác sĩ. Nếu nhẹ tôi có thể chữa được. Thầy tôi có nhiều bài thuốc nam chữa rất hay.
(Còn tiếp)
09:46 SA 18/08/2016
b
Ba_Ngoai_Sophia
Bắt chuyện
863
Điểm
·
89
Bài viết
Gửi tin nhắn
Báo cáo
Lên đầu trang
Cây cột ấy đã ở trước mặt hắn rồi. Đã nhiều lần cái lạnh chạy dọc xống lưng hắn. Mỗi bước đi của hắn là mỗi đoạn đời, ào đến, vụt qua. Bước đi cuối cùng hắn ngoảnh lại nhìn và giật mình khi nhận ra hai gương mặt vừa xa lạ vừa thân quen, vô tình mà duyên nợ với cuộc đời hắn. Tại sao hai gương mặt này lại ám ảnh hắn cho đến lúc chết nhỉ. Hắn nhắm mắt lại, cố lý giải bằng cách tập trung tái hiện trong đầu những hình ảnh cuối cùng về họ.
Gương mặt thứ nhất: Vị điều tra viên có nốt ruồi ở đuôi mắt trái.
Hắn được gặp người này lần cuối cùng khi anh ta đến trại tạm giam tống đạt tận tay hắn bản Kết luận điều tra. Người này bảo hắn hãy đọc cho hết bản kết luận đó rồi đề đạt ý kiến riêng của mình. Hắn cầm lấy tập giấy anh ta đưa cho, đọc chậm rãi, đến dòng cuối cùng thì dừng lại, ngẩng lên bảo:
- Bản kết luận này được bắt đầu bằng một buổi nói chuyện phiếm giữa cán bộ và tôi. Bây giờ, trước khi cầm bút ký nhận nó, tôi muốn nó cũng được kết thúc bằng một buổi nói chuyện phiếm, cán bộ có thể chiếu cố cho tôi điều ấy không?
Vị điều tra viên bật lên một tiếng cười rồi bảo:
- Quả là tôi đã không sai khi nghĩ về anh. Anh là một trong số những phạm nhân sẽ được đưa ra pháp trường. Những phạm nhân loại này bao giờ cũng để lại trong tôi những suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Có thể đó chỉ là những giây phút hoài cảm về cuộc đời và số phận của mỗi cá nhân. Nhưng với riêng anh, thành thực mà nói, chút suy nghĩ vẩn vơ trong tôi nhiều hơn, trở đi trở lại nhiều hơn, và có vẻ như cố rõ nét mà không sao rõ được.
Hắn bảo:
- Tội tôi quá nhiều, cái án dựa cột đối với tôi là không thể tránh khỏi. Kết luận điều tra đã đề nghị truy tố tôi ra toà với rất nhiều tội danh. Đó là chuyện của cán bộ, chỉ xin hỏi cán bộ đã bao nhiêu lần viết bản này rồi, và sau mỗi bản như thế này, cán bộ có thấy là mình đang làm một việc có ích không?
- Tại sao anh lại hỏi tôi câu đó? - Vị điều tra viên hỏi lại hắn.
- Vì cái ác chẳng bao giờ bị triệt tiêu, nó luôn tồn tại cùng con người - Hắn bảo.
- Cứ cho là cái ác không bị triệt tiêu nhưng giới hạn nó trong phạm vi và mức độ nhỏ nhất thì cũng là việc nên làm chứ!
- Có bao giờ cán bộ nghĩ rằng mình cũng đã từng sinh ra cái ác không?
- Suy nghĩ của anh mạch lạc và tôi còn thấy ở anh một chút nhạy cảm thái quá nữa kia đấy. - Vị điều tra viên đáp lời hắn - Anh muốn tôi làm rõ cái gọi là "Chút suy nghĩ vẩn vơ" chứ gì? Loại bỏ cái ác ra khỏi đời sống xã hội là nhiệm vụ của những người như chúng tôi. Tuy nhiên nói thì có vẻ nghe xuôi tai nhưng cái ác cũng là con người, mà chúng tôi thì cũng là con người. Không thể có chuyện con người loại bỏ con người, dù với danh nghĩa gì đi nữa mà lại không đem lại chút suy nghĩ vẩn vơ nào đó. Anh đã uống bia vào một buổi chiều mùa hè nóng nực ở một quán ven đường với một nhóm bạn bao giờ chưa?
Đang nói vị điều tra viên bỗng dừng lại bất ngờ đặt ra một câu hỏi có vẻ chẳng ăn nhập gì với mạch suy nghĩ trước đó.
Hắn nhíu mày một lát rồi đáp:
- Thưa cán bộ, rồi ạ!
Vị điều tra viên tiếp:
- Tôi và đám bạn của tôi thường mời nhau ra quán uống bia với những lý do khác nhau, có thể là vớ vẩn, có thể là nghiêm túc. Ví như tuần trước chẳng hạn, thằng bạn học cùng trường cảnh sát với tôi mời tôi ra quán uống bia để mừng cho vợ nó vừa đẻ con trai. Nó bảo nó vừa ở nhà hộ sinh về, thức suốt đêm, nhưng mừng quá, vui quá, muốn được san xẻ với ai đó, và chọn tôi làm người nâng ly cùng nó. Được vài vại thì điện thoại của nó rung chuông. Người ta bảo cho nó biết đối tượng mà nó theo dõi trong một chuyên án X, Y nào đó đang có mặt. Thế là nó "bai, bai" tôi để lao đến địa điểm đã định như trong phương án vạch trước. Và đối tượng của nó đã nhằm vào nó để bóp cò. Nó đã chết, thằng bạn của tôi ấy mà, đã chết khi chưa hưởng trọn niềm vui làm bố. Kẻ bắn nó đã bị bắt. Thử hỏi lúc đứng trước cái thằng giết người ấy, anh là tôi, anh sẽ nghĩ gì? Thằng giết người ấy tất nhiên rất đáng ghét, không, phải nói là đáng kinh tởm và căm thù mới đúng. Thằng ấy có thể xấu xí, lì lợm, ngổ ngáo, cũng có thể là một thằng bảnh chọe, đa cảm, mau nước mắt. Thằng ấy lưu manh, côn đồ, vô học nhưng cũng có thể là một thằng trí thức, chỉn chu, thậm chí học triết như anh, và học rất giỏi. Tuy nhiên, dù thằng ấy có thế nào thì cái máu căm hờn đang trào sôi lên trong tôi cũng buộc phải kìm lại khi đứng trước kẻ giết người cụ thể đó. Tình cảm phải nhường cho lý trí làm việc. Mà tình cảm thì như cái quả lắc đồng hồ ấy. Nó lắc đi lắc lại theo qui luật. Lý trí nhiều khi như ngón tay, thò vào giữ cho quả lắc đứng yên. Cứ như thế một lần, hai lần, nhiều lần cái quả lắc tình cảm trong tôi trở nên tội nghiệp biết nhường nào...
Vị điều tra viên nói đến đây, quay ra bật lửa châm thuốc hút. Anh ta đi đi lại lại, mắt dõi nhìn ra ngoài cửa sổ như cân nhắc xem cái gọi là "chuyện phiếm" với hắn như thế đã quá đà chưa?. Hắn bảo:
- Tôi hiểu những điều cán bộ nói. Nếu cứ theo cái lôgíc ấy mà suy diễn thì những người như cán bộ cũng chẳng sung sướng gì, cũng có những nỗi khổ tâm. Liệu cái đầu lạnh lên thì con tim có giảm sức nóng đi không?
- Với anh, tôi, đã từng tham gia chuyên án ngay từ những ngày đầu tiên - Vị điều tra viên như không nghe những lời hắn nói, tiếp tục những lời như bộc bạch - Đã có những đồng đội của tôi ngã xuống trước sự chống trả điên cuồng của anh. Khi nâng súng lên bắn anh ở dưới chân núi có ngôi chùa Áng Sơn, tôi đã nghĩ đến chuyện có thể nâng cao tầm ngắm lên chút nữa. Pháp luật sẽ ủng hộ tôi nếu viên đạn đó đi qua bả vai, cứa đứt cuống tim anh. Nhưng lúc ấy cái quả lắc đồng hồ trong tôi lắc liên hồi, lắc loạn nhịp và tôi đã hạ nòng súng xuống. Quay trở lại câu hỏi của anh, rất khó có thể đặt vấn đề cái đầu lạnh với quả tim nóng có tỉ lệ thuận với nhau không? Khi nâng súng nhằm vào anh, tôi cũng nghĩ đến việc một lúc nào đó anh nâng súng nhằm vào tôi. Tôi nhân danh cho cái thiện, còn anh là cái ác. Tôi có quyền bắt anh phải trả giá, cũng là để cho những họng súng trong bàn tay của cái ác không bao giờ còn có cơ hội xoáy về phía tôi. Và tôi hãy bóp cò sao cho đích đáng nhất. Cái đầu lạnh của tôi bảo thế. Nhưng rồi tôi đã không làm thế. Điều ấy lý giải thế nào? Thật khó diễn đạt bằng lời. Tôi đã khép lại nhiều cuộc đời bằng những bản kết luận điều tra như anh đã đọc. Và tôi cũng có một thói quen. Một thói quen không nên có.
- Là gì vậy, cán bộ?
- Là thả một vật kỷ niệm nào đó vào quan tài của những tử tội trước khi được đem đi chôn cất. Điều này vất vả đối với tôi nhưng đổi lại, lương tâm tôi thanh thản, đồng thời cũng là để khoả lấp cho cái giới hạn không thể nào lý giải được về sự hiện sinh của cái ác.
- Thưa cán bộ, với tôi, vật kỷ niệm ấy là gì?
- Anh không nên đặt câu hỏi đó.
- Vậy tôi muốn hỏi cán bộ một câu khác, một câu liên quan đến cá nhân tôi, được không ạ?
- Anh cứ hỏi?
- Cán bộ có thể nói thêm đôi chút về bức ảnh mẹ con cô Nhung được không? Đứa trẻ ấy là... là thế nào ạ?
- Câu chuyện của chúng ta nghe chừng vượt khỏi khuôn khổ của nó rồi đấy. Tôi không thể nói gì hơn về bức ảnh đó vì tôi đã hứa với người trong ảnh là không tiết lộ bất cứ một thông tin nào về mẹ con cô ta cho anh hay. Anh đừng làm khó tôi nữa. Anh hãy cứ tin rằng có hai mẹ con cô ấy đang tồn tại ngoài đời, vui vẻ và hạnh phúc. Có thể trong ký ức của cô ấy không còn có anh, hoặc cũng có thể, cô ấy muốn cuộc sống hiện tại không có bóng dáng của anh phủ xuống phần đời mình. Đã thế, anh cũng nên chấp nhận những gì mà cô ấy muốn.
Cho đến lúc này, khi hắn đang đi vào cõi chết, hắn cũng không biết gì hơn về bức ảnh mà vị điều tra viên kia đưa cho xem. Lần gặp cuối cùng ấy, ấn tượng để lại trong hắn là anh ta NGƯỜI hơn dẫu anh ta phải mang nhiều gương mặt trong đời để làm cái việc là loại bỏ những phần tử như hắn ra khỏi xã hội. Bây giờ gương mặt của anh ta vẫn đang theo dõi hắn cho tới bước chân cuối cùng. Gương mặt ấy rõ nét hơn lên trong hắn cũng là lúc gương mặt khác chen vào, làm bừng thức trong hắn những xúc cảm và dư chấn tâm lý mới trước giờ phút định mệnh của đời mình.
Gương mặt thứ hai đang hiện lên trước mắt hắn lúc này là Tâm "cận", chàng cuồng sĩ xuất hiện giữa bãi vàng Lũng Sơn lộn nhộn, lở loét, hỗn loạn ngày nào. Tâm cận mang một vẻ mặt khổ đau tiền kiếp, chiếc ba lô có quai đeo chéo trước ngực, gió thổi bạt tóc, đôi giày khủng bố dẫm lên cát bụi, cặp kính lấp loá dõi nhìn theo hắn. Đó là hình ảnh Tâm ở phiên toà phúc thẩm. Còn Tâm ở lần gặp hắn trong những ngày chờ Chủ tịch nước xét đơn xin ân xá gầy guộc, nhỏ bé, khuôn mặt nghĩ suy, đôi mày hơi nhíu và ánh mắt quét đi quét lại những tia sắc sảo, thông minh đến nghi ngại. Tâm là một ký giả trẻ đang được ghi nhận. Tâm bảo với hắn rằng: "Em đang viết về anh trong một phóng sự nhiều kỳ theo sự phân công của báo nhà. Nhưng những gì về anh trên mặt báo mới chỉ là cái vỏ bề ngoài, cái phần hành động mà thôi. Em hiểu về anh sâu hơn, cái phần không hành động ấy, những đớn đau vật vã, những im lặng nghĩ suy, những run rẩy dại khờ, những sợ hãi tuyệt vọng, những tàn nhẫn độc ác, em chẳng thể đưa vào mấy bài báo cỏn con ấy được".
Hắn bảo:
- Tâm bận tâm đến những thằng tử tù như mình làm gì, chỉ mất thời gian, lại thấy cuộc sống nó kém đi phần tươi tắn. Tâm đã lấy vợ chưa?
Tâm lắc đầu.
Hắn bảo:
- Mình vẫn còn nhớ chuyện của Tâm. Cô Loan rất yêu Tâm kia mà? Cả chị Thái nữa. Tâm có tìm được chị ấy không?
- Tâm bảo:
- Loan đã nhiều lần yêu cầu em cưới nhưng em đã từ chối. Em rất yêu Loan nhưng hình như lấy Loan thì em sẽ mất đi tình yêu của mình. Em sợ điều đó. Còn chị Thái vẫn biệt vô âm tín. Sau này khi đã ra trường rồi, đã về công tác ở toà soạn, em có dịp đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người từ bên kia trở về, em có ý hỏi nhưng trong dòng người hồi hương ấy không có ai biết chị Thái. Có lẽ chuyến đi ấy của chị Thái đã vĩnh viễn không cập bến, mà cũng có thể chị ấy chưa hề ra khỏi đất nước này. Em đã nghiệm ra được một điều, chị Thái là khát vọng về cái đẹp thời thơ bé của em. Nhưng hình như người ta luôn hướng về khát vọng quá khứ để không bằng lòng với hiện tại. Em triền miên sống trong những mối mâu thuẫn mà không sao giải quyết được. Phải chăng vì em là nốt nhạc trầm rời rớt lại từ sợi tơ lòng của người đàn bà yếu đuối đoản mệnh nên tâm hồn em là một khối kết tinh những giọt buồn trong suốt?
Hắn thành thực:
- Tâm là một trường hợp đặc biệt mà mình được gặp trong đời. Có vẻ như cái gì ở Tâm cũng phức tạp và không bình thường.
Tâm cười:
- Thế nào mới được coi là bình thường ở đời hả anh? Cái thiện và cái ác, cuộc đấu trường sinh, là bình thường phải không? Cái chết của anh cũng là bình thường phải không? Ôi nhân loại sẽ ra sao nếu không có thơ ca nhỉ? Có lẽ cũng chẳng sao, mọi sự vẫn diễn ra bình thường. Nhưng cái bình thường ấy mới kinh khủng làm sao? Cái bình thường của một nhân loại không có hồn thơ, không có nghệ thuật, không có cái đẹp, có còn gọi là một cuộc đời nữa không? Mà thôi, em chẳng nên đưa anh vào những khái niệm chưa hoàn chỉnh, lại lắm trúc trắc, hoài nghi ấy làm gì. Em chỉ nên đọc thơ cho anh nghe là đủ.
Phải, chỉ cần Tâm đọc thơ cho hắn nghe là đủ. Nắng phai để mộng tàn lây, Tình đi cho gió sương đầy quán không, Chợ tan ngàn nẻo cô phòng, Sầu dâng bàng bạc cánh đồng tịch liêu, Hồn đơn lắng bước chân chiều.... Ôi, những câu thơ như một lời hát ru cho cuộc đời tử tội. Những câu thơ hay những câu kinh số phận được dành riêng cho hắn?
Hành trình của tử tội chẳng dài lắm đâu
Cây cột có hình thánh giá trước mặt
Hãy bước lên và nhìn lại
Nơi cái ác bị kết liễu
Là cái thiện hồi sinh
Những giọt máu rớt xuống chân cột
Đất sẽ lại nảy mầm...
Và bây giờ thì hắn quay lưng lại với chiếc cột. Đã có bao nhiêu người dựa lưng vào chiếc cột này? Đã có bao nhiêu người chụm chân đứng trên mỏm đất này? Có ai trở về với cuộc sống sau khi đã một lần đứng ở nơi đây vào lúc bóng đêm đang nấn ná trước sự xua đuổi của ánh ngày? Không! Không có ai trở về cả. À có. Có chứ! Có một người đã từng lơ lửng dưới cây cột, đã từng chảy máu và vãi đái xuống lớp đất lạo xạo, gớm ghiếc này. Người ấy bây giờ thành Phật rồi. Người ấy không chờ giải thoát bằng súng đạn. Người ấy tìm thấy sự giải thoát dưới mái chùa bên chân núi kia.
Trước mặt hắn đội hành quyết đã đứng thành một hàng ngang. Hắn bỗng thấy mình tỉnh táo đến lạ thường. Hắn thấy rõ người đội trưởng hô khẩu lệnh. Bầu trời có vẻ như thoáng đãng ra. Và đạo hồng quang xuất hiện như một dải sông uốn lượn trên tầng không. Một con đò. Đúng rồi, hắn nhìn thấy một con đò! Trên con đò ấy có một tiên ông đang ngồi gảy đàn nguyệt....Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn người... Ông Thảnh ơi, ông về đón cháu đi đấy à? Dòng sông Măng sáng láng thế kia, con đò thanh lịch, trang nhã, tôn quí thế kia có chỗ cho một kẻ tội đồ như cháu không? Ở phía cuối dòng sông, nơi đạo hào quang mất hút trước chân trời là địa ngục đang chờ cháu phải không hả ông? Hay bản thân con đò là địa ngục rồi, là chỗ trú ngụ vĩnh viễn cho linh hồn tội lỗi của cháu? Ô kìa, những vì sao! Những vì sao bỗng vọt ra từ những chùm pháo hoa từ đâu bắn tới, toả ra miên man, dày đặc, giăng khắp dòng sông ảo ảnh. Những vì sao đủ sắc màu cứ vọt ra, vọt ra liên tục, lấp lánh trên dòng sông Măng, trên con đò đang bồng bềnh trôi, phủ xuống dáng ngồi tiên ông, xuống cây đàn nguyệt, xuống cả thứ âm thanh réo rắt, nỉ non lúc trầm lúc bổng. Những vì sao đang rơi xuống, rơi xuống bất tận và như không đủ sức chứa nổi triệu triệu những vì tinh tú, dòng sông Măng đáng tương, đạo hào quang tội nghiệp bỗng vỡ ra kèm theo một tiếng nổ long trời, phá rách khoảng đêm mê muội giăng mắc trên những mỏm núi đá. Ngàn vạn những sắc xanh, đỏ, hồng, tím ùa vào mắt hắn sau cái rùng mình rung cả cây cột. Cây cột phát ra một lực rung truyền vào đất. Đất truyền lực rung ấy đến một vài thực thể khiến họ bật ngồi dậy giữa giấc ngủ mê của một đêm mùa hè oi bức. Người bật dậy đầu tiên và ôm mặt nức lên những tiếng hờn tủi chính là mẹ hắn. Khi ánh ban mại rọi đến trường bắn Áng Sơn thì mọi cảnh tượng trong đêm đã biến mất, như thế đêm đen vốn bí ẩn và huyền nhiệm, sinh ra tất cả để rồi lại lấy về tất cả. Khu trường bắn lại trở về với khung cảnh hoang sơ, buồn nản của nó. Dẫu sao đêm cũng đã để lại một sự biến dạng nhỏ. Một khoảnh đất dài độ hai mét mới được đào lên và đắp xuống. Đất vẫn còn vụn tơi. Trên đất ấy có hương và hoa...
...
Sau này người dân ở làng Áng Sơn còn bàn tán mãi về cái đêm thi hành án tử hình ấy. Dù sao thì tử tội cũng là người làng, cũng có bạn bè, họ mạc, người quen, có chút dư âm kỷ niệm với người này người kia nên cái sự bàn tán âu cũng là chuyện thường tình.
Ông Đỗ Văn - Chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, cũng người làng Áng Sơn, một thành viên của Hội đồng thi hành án tử hình, sau này về hưu, khi kể lại đêm hành quyết đó, đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, sau lúc nấm mồ được đắp lên ông đã nấn ná ở lại và gặp hai người rất lạ. Một người lặng lẽ rút trong túi áo ngực ra tấm ảnh nhỏ bằng bàn tay, vùi xuống dưới chân hương, nghiêng mình tiễn biệt tử tù như một cái nghĩa với đồng loại. Rồi anh ta lẩm bẩm một câu rất khó hiểu: " Cầu chúc cho anh được siêu thoát, cô ấy đang đợi anh ở dưới đấy. Đây chỉ là một tấm ảnh được làm bằng kỹ thuật vi tính. Tôi đã thắp nên trong anh tình yêu cuộc sống để rồi anh lại phải vĩnh viễn xa nó. Chắc anh cũng không trách tôi về điều này". Còn người thứ hai đeo đôi kính cận. Anh ta đến trước mộ và đọc một bài thơ rất dài. Ông còn nhớ được hai câu: Áo thêu khăn gấm ngày đi, Lều không quán bỏ hồn si chợ tàn.
Những người dân trong làng thì lại kháo nhau rằng đêm hôm đó chuông chùa Áng Sơn đổ dồn 108 tiếng vào quãng 5 giờ sáng. Sư Pháp Thiện trụ trì chùa tụng kinh suốt đêm. Sau 35 ngày sư Pháp Thiện lại làm lễ cầu siêu cho tử tội để rước vong về chùa. Buổi lễ hôm ấy sư trụ trì đọc kinh Adiđà, kinh ấy có đoạn như thế này:
Nguyện sinh Tây Phương tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vãng sinh.
Nhất thành thượng đạt vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triện lợi lộc.
Bây giờ nếu có du khách nào đến chùa Áng Sơn sẽ không khỏi ngạc nhiên khi được biết trong đất chùa có xây một ngôi mộ cho kẻ tử tù. Trên nóc mộ có treo một dải phướn nhỏ. Vào những đêm trăng sáng, cô giáo Dịu ở dưới làng thường lên chùa ngồi chơi với sư Pháp Thiện. Hai người ngồi ngoài sân uống trà và xem hoa nở. Thỉnh thoảng họ lại ngước mắt lên nhìn dải phướn nhỏ tung bay trong gió.../
Hết.